Nghị quyết 68-NQ/TW không chỉ hướng tới phát triển kinh tế tư nhân, mà còn là chiến lược phát triển bền vững. Trong đó, ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị) được xem là “chìa khóa”.
Diễn đàn Doanh nghiệp đã có cuộc trao đổi với PGS, TS Nguyễn Ngọc Hà, Viện trưởng Viện Nghiên cứu sáng tạo, Trường Đại học Ngoại thương, về những thách thức và giải pháp để ESG trở thành “đòn bẩy” chiến lược cho khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam.
Có thể nói Nghị quyết 68-NQ/TW đã mở ra hành lang chính sách thuận lợi để khu vực kinh tế tư nhân phá bỏ mọi rào cản và phát huy mọi tiềm lực. ESG đang được các doanh nghiệp Việt Nam nhìn nhận từ cả hai góc độ: vừa là đòn bẩy, vừa là một “hàng rào” cho không ít doanh nghiệp Việt Nam muốn tiếp cận thị trường ở các quốc gia/khu vực phát triển.
Những khó khăn của doanh nghiệp trong vấn đề này xuất phát từ các nguyên nhân như:
Thứ nhất là thiếu nguồn lực. Việc áp dụng ESG đòi hỏi phải có nguồn lực tài chính, nhân lực và công nghệ đáng kể. Đây là một khó khăn đối với phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam.
Thứ hai là thiếu hiểu biết và kinh nghiệm. Nhận thức về ESG chưa thực sự đồng đều. Nhiều doanh nghiệp còn thiếu kinh nghiệm triển khai ESG trên thực tế. Các lợi ích cũng như lộ trình thực hiện ESG cũng chưa được nhìn nhận và đánh giá một cách đầy đủ.
Thứ ba là áp lực cạnh tranh và tầm nhìn lợi nhuận trong ngắn hạn. Nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam bị áp lực cạnh tranh khiến họ chọn cách ưu tiên cho lợi nhuận ngắn hạn; từ đó chưa xem xét đầy đủ đến các yếu tố dài hạn và bền vững.
Thứ tư là khung pháp lý và chính sách chưa rõ ràng và đôi khi phức tạp. Khung pháp lý chưa hoàn thiện về ESG của Việt Nam tạo nên khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình triển khai và áp dụng.
Ngược lại, không ít doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thấy ESG có thể tạo ra nhiều lợi thế - từ nâng cao hình ảnh, giá trị thương hiệu; giúp tiếp cận nguồn vốn xanh bền vững; cho tới tăng cường hiệu quả hoạt động; thu hút được nhân lực chất lượng cao. Điều đó giúp tăng cơ hội mở rộng thị trường, đối tác, tăng doanh số và lợi nhuận.
Có thể thấy ba vấn đề được đề cập ở đây đều có thể được coi là những điểm nghẽn lớn trong việc triển khai ESG trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Bất ổn nội tại của các doanh nghiệp, như thiếu kiến thức và kinh nghiệm triển khai ESG, thiếu nguồn lực, thiếu chiến lược và tầm nhìn, thiếu dữ liệu và các công cụ báo cáo… vẫn có thể được coi là điểm nghẽn cốt lõi và mang tính nền tảng nhất.
Khi ESG mang tính tự nguyện, thì việc áp dụng và triển khai áp dụng ESG sẽ phụ thuộc lớn nhất vào doanh nghiệp. Như đã phân tích ở trên, nếu doanh nghiệp nhận thức rõ lợi ích và biết cách thức làm để ESG mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, thì doanh nghiệp sẽ triển khai ESG thành công. Nhiều trường hợp thành công khi triển khai ESG tại Việt Nam đã cho thấy rõ điều này.
Khi ESG trở thành bộ tiêu chuẩn theo yêu cầu bắt buộc của nhiều đối tác, trong đó có Liên minh châu Âu (EU), doanh nghiệp Việt Nam sẽ bắt buộc phải áp dụng nếu muốn tham gia vào chuỗi cung ứng liên quan.
Thực tế, như tôi được biết, không ít doanh nghiệp đã coi điều này như một cơ hội mang tính chiến lược để mang lại cho doanh nghiệp những cơ hội mới, mang tính đổi mới sáng tạo và đột phá, để không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường quốc tế, mà tạo ra những thay đổi mang tính tích cực, đảm bảo sự phát triển trong dài hạn của doanh nghiệp.
Ngược lại, không ít doanh nghiệp vẫn coi ESG là một gánh nặng khi tiếp cận thị trường quốc tế. Để thay đổi tư duy này, cần sự vào cuộc của nhiều bên.
Trước hết, Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan với vai trò kiến tạo và định hướng cần xây dựng hệ thống chính sách và quy định tạo ra môi trường thuận lợi cũng như tạo ra những áp lực buộc doanh nghiệp cần áp dụng ESG.
Nhà nước có đẩy đủ thẩm quyền và nguồn lực để kiến tạo môi trường, từ thể chế, pháp luật… để kết nối các bên liên quan cùng thực hiện định hướng, chiến lược chung về phát triển ESG. Một cơ chế được coi là phù hợp cần có sự tham gia đầy đủ của các bên có liên quan và cân nhắc đến các yếu tố để đảm bảo ESG được triển khai phù hợp với điều kiện và bối cảnh của Việt Nam.
Bên cạnh đó, các nghị quyết của Đảng như Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 68-NQ/TW có thể tạo ra những thay đổi mang tính bước ngoặt cho doanh nghiệp trong việc áp dụng ESG.
Cùng với đó, các tổ chức tài chính cần xem xét để tích hợp ESG vào quy trình thẩm định và cấp tín dụng; phát triển các sản phẩm tài chính xanh và trở thành điển hình trong việc triển khai ESG.
Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam nên áp dụng chiến lược “top-down”, tức là nhận thức về lợi ích và vai trò của ESG trước hết cần phải được thực hiện từ bộ máy lãnh đạo cấp cao nhất, sau đó đến bộ máy bên dưới. ESG cần được tích hợp vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp, sau đó được thực hiện với những hành động rất cụ thể.
- Trân trọng cảm ơn ông!