Để kinh tế tư nhân trở thành trụ cột thúc đẩy tăng trưởng cần tạo môi trường kinh doanh công bằng để doanh nghiệp tư nhân tiên phong mở rộng sản xuất và bắt kịp cơ hội.
Thực tế hiện nay, nhiều chuyên gia cũng nhận thấy, các chính sách cho kinh tế tư nhân còn ít và mờ nhạt, chưa công bằng so với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI trong quy trình thủ tục đầu tư, xây dựng, các tiếp cận về đất đai, về vốn, về tín dụng, về thủ tục hành chính và không ít các chính sách ưu đãi khác.
Đáng lưu ý, sự phân biệt và khoảng cách không chỉ tồn tại giữa doanh nghiệp tư nhân và các khối doanh nghiệp khác mà còn thể hiện ở ngay trong nội bộ khu vực tư nhân. Đây là rào cản vô hình nhưng dai dẳng, đặc biệt đối với những doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp thủy sản - vốn không chỉ giữ vai trò về mặt kinh tế, thương hiệu quốc gia mà còn gắn liền với sinh kế, văn hóa và bản sắc của người Việt.
Để xây dựng môi trường công bằng, tạo động lực để các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, các doanh nghiệp ngành nông nghiệp-thủy sản vững tin vào cho phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, cần tháo gỡ 10 nút thắt quan trọng.
Trước hết, thách thức trong thủ tục đầu tư và xây dựng - lĩnh vực. Đây là nút thắt đã “bào mòn” doanh nghiệp khi phải chờ đợi từ 3 - 5 năm để xin phép qua đủ cấp, từ xã, huyện, sở, tỉnh cho đến Trung ương trước khi triển khai một dự án mới hoặc mở rộng sản xuất. Chưa kể, quá trình này còn yêu cầu doanh nghiệp đặt tiền cọc bảo lãnh dự án, chứng minh nguồn vốn đầu tư, khiến doanh nghiệp vừa mất thời gian, vừa tốn kém chi phí đầu tư do lãi suất và trượt giá.
Tiếp theo là thách thức trong quá trình tiếp cận đất đai. Thực tế hiện nay, nhiều diện tích phù hợp cho sản xuất nông nghiệp hoặc nuôi trồng thủy sản lại không được ưu tiên quy hoạch cho khu vực tư nhân, trong khi giá thuê đất tại các khu công nghiệp vẫn còn cao. Do đó, doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nông - thủy sản, cần được ưu tiên trong tiếp cận quỹ đất sản xuất với giá thuê hợp lý.
Liên quan đến chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chúng tôi đề nghị cần có chính sách linh hoạt hơn, đặc biệt trong nông nghiệp ví dụ như chuyển từ đất trồng lúa sang nuôi tôm, để tối ưu hiệu quả đầu tư và phù hợp với thực tiễn canh tác ở địa phương.
Về vốn tín dụng và lãi suất, các điều kiện vay vốn hiện nay đang bó hẹp, chỉ chấp nhận tài sản có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu. Đề nghị Nhà nước cần huy động các Quỹ hiện có cùng với hệ thống ngân hàng thương mại để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp nông nghiệp.
Về dòng vốn, cần cải cách mạnh công tác hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp tư nhân -vốn đang rất chậm, khiến các doanh nghiệp nhỏ bị cạn kiệt dòng vốn. Ngoài ra, cần có quy định rõ ràng về việc áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các sản phẩm đã qua chế biến như sản phẩm thủy sản để tránh tình trạng thiếu đồng bộ, gây bất an cho doanh nghiệp.
Về bảo hiểm xã hội, mức đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp của Việt Nam đang ở mức cao hàng đầu thế giới, áp dụng đồng loạt cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, bất kể quy mô hay ngành nghề. Chính sách cần phân tầng hoặc phân vùng rõ ràng, có ưu đãi đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp nông - thủy sản, để họ không bị quá tải nghĩa vụ.
Ngoài thuế, doanh nghiệp tư nhân còn đang gánh thêm nhiều loại phí và kinh phí bắt buộc khác như kinh phí công đoàn (2% quỹ lương) hay Quỹ phòng chống thiên tai (0,02% giá trị tài sản, tối đa 100 triệu đồng). Đây đều là những khoản chi không nhỏ, đặc biệt với doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ.
Một gánh nặng khác, hằng năm, doanh nghiệp phải tiếp nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra từ các cơ quan khác nhau. Chúng tôi đề xuất xếp hạng doanh nghiệp từ A đến E để điều chỉnh tần suất kiểm tra: doanh nghiệp hạng A - xuất sắc thì 10 năm mới kiểm tra một lần, còn doanh nghiệp yếu thì kiểm tra nửa năm/lần. Làm được vậy sẽ tạo thêm động lực cho doanh nghiệp tự hoàn thiện và phát triển.
Chi phí điện năng cũng là một điểm nghẽn lớn trong vận hành của các doanh nghiệp sản xuất. Trong khi đơn giá điện áp dụng chung chưa hợp lý, thì việc lắp đặt điện mặt trời áp mái lại gặp nhiều ràng buộc. Do đó, cần có cơ chế khuyến khích rõ ràng, từ ưu đãi giá đến hỗ trợ lắp đặt.
Từ những nút thắt đó, để tạo ra bước ngoặt phát triển như mô hình “khoán 10” trước đây trong nông nghiệp, cần có các chính sách thật sự đột phá, cụ thể và mang tính thực tiễn cao. Đặc biệt, muốn “trị bệnh” cần phải đúng chỗ, đúng bệnh, mọi giải pháp cần phải xuất phát từ thực trạng cụ thể của nền kinh tế trong nước.
Thứ nhất, cần có cơ chế huy động các doanh nghiệp tư nhân lớn tham gia vào các dự án trọng điểm quốc gia, bao gồm cả hạ tầng biển và hợp tác khai thác biển, thực hiện hiệu quả Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế biển Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045.
Thứ hai, nâng cao vai trò và vị trí của các hiệp hội doanh nghiệp. Các hiệp hội cần trở thành đối tác thực sự của cơ quan nhà nước, hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực tư nhân.
Thứ ba, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, bãi bỏ các quy định chồng chéo, bất hợp lý, tạo công bằng giữa các doanh nghiệp tư nhân và nhà nước, FDI; tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động thay vì nghiêng về kiểm soát… Phải chuyển từ kiểm soát sang tạo hành lang pháp lý thông thoáng, minh bạch.
Bên cạnh đó, mỗi tỉnh thành nên lập một Trung tâm có thể gọi là “Trung tâm khởi nghiệp” hoặc “Trung tâm sáng tạo, phát triển” thực hiện ít nhất 3 chức năng: hỗ trợ pháp lý, chuyển giao công nghệ và thẩm định dự án. Đây sẽ là nơi để điều phối, tổ chức, hỗ trợ theo các quyết sách của Nhà nước cho kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân ở mỗi tỉnh. Đồng thời, cho phép các ngành hàng chủ lực được thành lập “Quỹ phát triển công nghệ”. Quỹ này được trích theo tỷ lệ phần trăm xuất khẩu và sẽ là nguồn lực cho công nghệ, hỗ trợ đổi mới sáng tạo, kết nối các sức mạnh đầu tư-thị trường của ngành hàng.