Ngành ngân hàng đã đưa ra nhiều cơ chế chính sách, đặc biệt là tín dụng với lãi suất hợp lý giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tại Hội thảo “Vốn ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân”, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Hiện khu vực này đóng góp gần 50% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm khoảng 85% tổng số lao động trong nền kinh tế. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa (chiếm 98%), khả năng tiếp cận vốn ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế.
Nhận thức được tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của nền kinh tế, thời gian qua, ngành ngân hàng, với vai trò là “huyết mạch” của nền kinh tế đã đưa ra nhiều cơ chế chính sách, đặc biệt là tín dụng với lãi suất hợp lý giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tính đến nay, hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng đối với kinh tế tư nhân đã đạt kết quả rất tích cực. Theo đó, dư nợ tín dụng cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân tính đến cuối 2024 đạt khoảng 7 triệu tỉ đồng, tăng 14,7% so với năm 2023, chiếm 44% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong đó có 100 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa với tổng dư nợ đạt 2,74 triệu tỉ đồng, tăng 10,7% so với cuối năm 2023, chiếm 17,6% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.
Con số có 208.992 DNNVV còn dư nợ cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân, đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, NHNN và góp phần thúc đẩy, tăng cường nguồn vốn tín dụng đối với phát triển kinh tế tư nhân đưa kinh tế tư nhân trở thành lực lượng chủ lực đi đầu trong ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo, có năng lực cạnh tranh toàn cầu, làm chủ công nghệ và hội nhập sâu rộng vào chuổi giá trị phát huy tối đa tiềm năng, trở thành động lực dẫn dắt nền kinh tế vươn ra thị thường quốc tế.
Về các chính sách, ông Đào Minh Tú cho biết: “Hiện đã có những chính sách giảm lãi suất khi quy định DNNVV là một trong 5 đối tượng cho vay lãi suất thấp nếu đủ điều kiện, rõ ràng đó là một lợi thế ưu đãi rất lớn về lãi suất. Đồng thời, thời hạn tiếp cận vốn, cơ chế chính sách giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân rất bình đẳng, chỉ có điều kiện tiếp cận khác nhau".
Đối với kinh tế tư nhân Nghị định 55 đã rất nhiều ưu đãi, ngoài những chính sách đã có, sắp tới sẽ có một vài nghị định thông thoáng hơn nữa cho kinh tế tập thể, nông nghiệp nông thôn, trong đó có thành phần DNNVV, kinh tế tư nhân.
Theo Phó Thống đốc, mặc dù khu vực kinh tế tư nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ, nhưng các doanh nghiệp vẫn đối mặt với nhiều khó khăn. Phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, hạn chế về tiềm lực tài chính và khả năng cạnh tranh. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
“Về nguồn lực kinh tế tư nhân nếu chỉ dựa vào ngân hàng thì không đủ, tính chất vốn ngân hàng không thể đảm đương hết các nhu cầu vốn để phát triển kinh tế tư nhân, mà còn phải có nhiều nguồn lực khác từ ngân sách, quỹ đầu tư, startup...”, Phó Thống đốc nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Thanh Khiết - Chủ tịch Hãng kiểm toán ASCO cũng cho rằng: Một trong những thách thức lớn nhất mà doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp phải là khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng. Các nguyên nhân chính bao gồm thiếu tài sản đảm bảo, hồ sơ tài chính chưa minh bạch… Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần triển khai các giải pháp đồng bộ từ phía ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.
Theo ông Khiết, doanh nghiệp cần nâng cao năng lực quản trị, năng lực tài chính và minh bạch thông tin; Xây dựng, cải thiện hệ thống quản trị doanh nghiệp, áp dụng công nghệ và AI trong kế toán và quản lý tài chính, các lĩnh vực tác nghiệp khác. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần xây dựng báo cáo tài chính minh bạch, có kiểm toán độc lập để tạo niềm tin với ngân hàng. Chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh đồng bộ với các kế hoạch tác nghiệp khác và phương án sử dụng vốn hiệu quả để thuyết phục ngân hàng.
Ngoài ra, các ngân hàng nên thiết kế các sản phẩm tài chính chuyên biệt như khoản vay tín chấp dựa trên dòng tiền kinh doanh, khoản vay theo hợp đồng đầu ra hoặc khoản vay dựa trên tài sản hình thành từ vốn vay. Cần mở rộng mô hình đánh giá tín dụng dựa trên dữ liệu giao dịch thực tế của doanh nghiệp thay vì chỉ tập trung vào tài sản đảm bảo.
Cải tiến quy trình thẩm định tín dụng theo hướng đơn giản, minh bạch và rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ. Áp dụng mô hình thẩm định tín dụng theo rủi ro, kết hợp đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp bằng các tiêu chí linh hoạt, giảm bớt yêu cầu giấy tờ không cần thiết và tự động hóa một số bước xét duyệt để tăng tốc độ giải ngân.
Ứng dụng công nghệ tài chính (Fintech) vào đánh giá tín dụng: Ngân hàng có thể tận dụng dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI) để đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp dựa trên dữ liệu giao dịch, hóa đơn điện tử và lịch sử thanh toán. Điều này giúp tăng tính chính xác trong quyết định tín dụng và rút ngắn thời gian duyệt vay, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn nhanh chóng.
Đồng thời, phát triển mạnh hệ thống quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm giảm bớt rủi ro cho ngân hàng và hỗ trợ doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo: Chính phủ và các tổ chức tài chính cần tăng cường vốn cho các quỹ bảo lãnh tín dụng, mở rộng phạm vi bảo lãnh để giúp nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Đồng thời, cần cải tiến quy trình bảo lãnh để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả, giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí khi tiếp cận vốn.
Thúc đẩy các mô hình tài chính thay thế để mở rộng kênh huy động vốn như thuê tài chính (Leasing), tín dụng chuỗi cung ứng: Các doanh nghiệp có thể vay dựa trên hợp đồng đầu vào, đầu ra, giúp họ duy trì hoạt động sản xuất mà không cần tài sản thế chấp; Crowdfunding (gọi vốn cộng đồng); P2P Lending (cho vay ngang hàng); Kết nối trực tiếp nhà đầu tư và doanh nghiệp, giảm bớt các yêu cầu khắt khe của ngân hàng và giúp doanh nghiệp nhỏ tiếp cận vốn dễ dàng hơn…
Chính sách hỗ trợ từ Chính phủ và các tổ chức liên quan hoàn thiện khung pháp lý, tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức tín dụng phát triển sản phẩm tài chính phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa; xây dựng chương trình đào tạo nâng cao năng lực tài chính và quản trị cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, giúp họ tiếp cận và sử dụng vốn hiệu quả hơn; thiết lập cơ sở dữ liệu tín dụng tập trung để doanh nghiệp có lịch sử tín dụng tốt dễ dàng tiếp cận vốn hơn.
“Việc cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ phụ thuộc vào doanh nghiệp mà còn cần sự hỗ trợ từ ngân hàng, tổ chức tài chính và cơ quan quản lý nhà nước. Chúng ta cần chung tay triển khai các giải pháp đồng bộ để giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp nhiều hơn vào sự thịnh vượng của nền kinh tế Việt Nam”, ông Khiết nhấn mạnh.
Chia sẻ tại Hội thảo, ông Nguyễn Văn Thân - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cho biết, các doanh nghiệp cần đầu tư vào công nghệ và tạo thành chuỗi liên kết giữa các doanh nghiệp để sát cánh cùng phát triển.
Về vay vốn ngân hàng, ông Nguyễn Văn Thân cho biết, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tập hợp các thông tin, hồ sơ về Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Hiệp hội sẽ tư vấn cho doanh nghiệp và đứng ra giới thiệu với ngân hàng.
"Điều này mang lợi ích về mặt thời gian. Các ngân hàng cho vay cũng yên tâm hơn rất nhiều. Cần phải liên kết, sát cánh để Hiệp hội có thể giúp các doanh nghiệp. Có rất nhiều các phương án để doanh nghiệp huy động vốn, ngoài ngân hàng thì còn các quỹ… Nhưng vẫn cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ tiếp cận hơn so với đi vay ở ngân hàng", ông Thân cho hay.