HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC: Du lịch - “quyền lực mềm” của di sản văn hóa

Ông NGUYỄN TRÙNG KHÁNH - Tổng cục Trưởng Tổng cục Du lịch 24/11/2021 11:18

Phát huy giá trị của các di sản văn hóa để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.

>>HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC: Giá trị văn hóa phát huy cao độ trong đại dịch COVID-19

Nếu nói văn hoá là “quyền lực mềm” của một quốc gia, thì du lịch đóng vai trò quan trọng để đẩy mạnh và phát huy quyền lực ấy một cách hữu hiệu. Văn hóa là nét đặc trưng, tạo nên sự khác biệt của mỗi quốc gia, mỗi điểm đến và chính là điểm hấp dẫn, thu hút khách du lịch.

Ông Nguyễn Trùng Khánh, Tổng cục Trưởng Tổng cục Du lịch.

Ông Nguyễn Trùng Khánh, Tổng cục Trưởng Tổng cục Du lịch.

Du lịch văn hóa gắn với các giá trị di sản văn hóa đã, đang và sẽ luôn là nhu cầu, xu hướng của các thị trường khách du lịch. Giá trị của các di sản văn hóa như các di tích lịch sử, công trình kiến trúc - nghệ thuật, các bản làng dân tộc với văn hóa bản địa độc đáo, các tập quán, lễ hội, nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực đặc sắc của mỗi vùng miền… luôn là những đối tượng hấp dẫn, thu hút du khách khám phá, thưởng thức, trải nghiệm. 

Những điểm đến du lịch khai thác, phát huy được giá trị của di sản văn hóa truyền thống trong sự vận động không ngừng của xã hội hiện đại không chỉ thành công trong việc thu hút du khách đến với mình mà còn tạo được sự ảnh hưởng và sự lan tỏa văn hóa ra ngoài phạm vi lãnh thổ của mình tạo động lực cho du khách mong muốn trải nghiệm những giá trị đích thực, nguyên bản tại chính nơi “sản sinh” ra chúng. 

Với truyền thống văn hóa giàu có và đặc sắc, giá trị di sản văn hóa của Việt Nam luôn có sức hấp dẫn, thu hút khách du lịch quốc tế bởi đặc trưng của nền văn hóa Á Đông, những di tích, sự kiện ghi đậm dấu ấn trong lịch sử nhân loại, sự đa dạng trong phong tục tập quán, lối sống, ẩm thực, lễ hội. Trong ba năm liên tiếp, 2019-2021, Việt Nam được tổ chức Giải thưởng Du lịch Thế giới (WTA) bình chọn danh hiệu là “Điểm đến văn hóa hàng đầu Châu Á”. 

Đảng và Nhà nước ta luôn xác định, nhấn mạnh vai trò của văn hóa với phát triển du lịch. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn đã chỉ rõ trong quá trình phát triển du lịch phải chú trọng bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cũng nhấn mạnh quan điểm “phát triển du lịch văn hóa, gắn phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy giá trị di sản và bản sắc văn hóa dân tộc”.

Đồng thời “chú trọng phát triển sản phẩm du lịch văn hóa, gắn với bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, lịch sử, truyền thống của dân tộc; tập trung khai thác thế mạnh ẩm thực đa dạng, đặc sắc của các vùng, miền để hình thành sản phẩm du lịch độc đáo, khác biệt, có lợi thế cạnh tranh, góp phần tạo dựng thương hiệu nổi bật của du lịch Việt Nam”. 

>>HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC: 6 kiến nghị của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch

Tạo động lực

Di sản văn hóa tạo động lực cho du lịch. Với du lịch, di sản văn hoá chính là một trong những tài nguyên vô giá, là dấu ấn ghi lại quá trình hình thành, phát triển của xã hội, thôi thúc con người gìn giữ và bảo tồn những giá trị ấy. Quá trình gìn giữ, bảo tồn không tách rời với việc đưa những giá trị vô giá đó đến gần hơn với những thế hệ trẻ, gần hơn với du khách và thế giới. Chính di sản văn hoá là nền tảng, là bàn đạp vững chắc để du lịch bước những bước xa hơn.

Vịnh Hạ Long.

Vịnh Hạ Long.

Di sản văn hóa là nguồn lực cơ bản để phát triển du lịch. Di sản văn hoá là kết tinh tri thức của xã hội loài người qua các thế hệ. Với du lịch, di sản văn hoá cùng với thiên nhiên đã trở là hai nguồn tài nguyên cơ bản nhất để khai thác và phát triển. Chính vì thế, dựa vào “trụ cột” di sản văn hoá sẽ là nguồn lực không bao giờ cạn kiệt để phát triển du lịch. 

Di sản văn hóa là yếu tố xây dựng năng lực cạnh tranh của điểm đến. Di sản văn hoá mỗi địa phương, mỗi quốc gia đều mang những dấu ấn đặc trưng riêng có, không trùng lặp, không sao chép rập khuôn nhau. Chính vì thế, mỗi điểm đến sẽ là sự ghi nhận của những giá trị văn hoá đặc sắc riêng, mang sự hấp dẫn riêng đối với du khách, tạo nên những dấu ấn, những ưu thế riêng của địa phương/điểm đến. Phát huy được những ưu thế riêng này chính là đã góp phần củng năng lực cạnh tranh của điểm đến. 

>>HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC: Hà Nội vận dụng sáng tạo đường lối phát triển văn hóa của Đảng

Nguồn của cải quý giá

Việt Nam là đất nước có nguồn tài nguyên du lịch văn hóa phong phú và đa dạng. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử với 54 dân tộc mang đậm đà bản sắc văn hóa. Hiện nay, Việt Nam có 8 di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh được UNESCO công nhận là Di sản thế giới, trong đó có 5 di sản văn hóa ; 2 di sản thiên nhiên  và 01 di sản hỗn hợp thiên nhiên – văn hóa; 12 di sản văn hóa phi vật thể và 4 di sản tư liệu. Các Di sản thế giới được UNESCO công nhận đã tạo thay đổi diện mạo ngành du lịch của địa phương và nâng tầm vị thế cho du lịch di sản của Việt Nam trên bản đồ du lịch của thế giới. 

Bên cạnh các di sản văn hóa được công nhận ở cấp độ toàn cầu, Việt Nam cũng sở hữu một hệ thống đồ sộ các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh ở cấp độ quốc gia hoặc địa phương, trải dài khắp đất nước. Hệ thống các lễ hội, làng nghề truyền thống; văn hóa ẩm thực đặc sắc của các vùng miền, của các dân tộc; các di sản văn hóa – nghệ thuật, văn nghệ dân gian, các bảo tàng lưu giữ các chứng minh giá trị di di sản văn hóa dân tộc… Đây là những tài nguyên du lịch hết sức đặc sắc, mang tính đặc trưng văn hóa của Việt Nam, là nguồn lực quan trọng, tạo thế mạnh và sự khác biệt của du lịch Việt Nam.

Tạo thương hiệu

Trong giai đoạn 2015 – 2019 trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát, du lịch Việt Nam đã đạt được những dấu mốc ấn tượng với mức tăng trưởng trung bình về lượt khách đạt 22,7%/năm và về doanh thu đạt 20,7%/năm. Riêng năm 2019, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 18 triệu lượt, tăng 16% so với năm 2018. Lượng khách du lịch nội địa đạt 85 triệu lượt khách. Tổng thu từ khách du lịch đạt 755 nghìn tỷ đồng, đóng góp 9,2% vào GDP của cả nước. 

Du lịch văn hóa gắn với các giá trị di sản văn hóa đã, đang và sẽ luôn là nhu cầu, xu hướng của các thị trường khách du lịch.

Du lịch văn hóa gắn với các giá trị di sản văn hóa đã, đang và sẽ luôn là nhu cầu, xu hướng của các thị trường khách du lịch.

Du lịch văn hóa đã khẳng định vai trò quyết định trong việc tạo nên kết quả ấn tượng này. Các di sản văn hóa là giá trị cốt lõi để phát triển du lịch đặc trưng ở các vùng du lịch của Việt Nam. Các sản phẩm du lịch văn hoá nổi bật và hấp dẫn du khách trong thời gian qua như du lịch tham quan di sản, nghiên cứu văn hoá lịch sử thông qua di sản, các bảo tàng sống và các bảo tàng trưng bày, tìm hiểu và trải nghiệm văn hoá truyền thống, đời sống văn hóa cộng đồng du lịch Lễ hội, du lịch văn hóa ẩm thực, du lịch tâm linh…

Nhiều sản phẩm như tham quan di sản văn hóa thế giới Cố đô Huế, phố cổ Hội An, di tích Thánh địa Mỹ Sơn, danh thắng Tràng An, tham gia các lễ hội truyền thống và đương đại như lễ hội Chùa Hương, lễ hội Yên Tử, lễ hội Bà Chúa Xứ, Festival Huế… đã nhận được sự quan tâm lớn của du khách và trở thành những sản phẩm du lịch có thương hiệu, hấp dẫn.

Có thể khẳng định, sản phẩm du lịch văn hoá chính là yếu tố tạo nên nét khác biệt cho hệ thống sản phẩm du lịch Việt Nam, kết nối và đa dạng hoá các tour, tuyến du lịch. Kết quả một cuộc điều tra cho thấy, hoạt động thăm quan di sản văn hóa tại Việt Nam là hoạt động được khách du lịch quốc tế ưa thích thứ 2, chỉ sau nghỉ dưỡng tắm biển.

Di sản văn hóa là nền tảng hình thành tài nguyên du lịch, tạo ra các sản phẩm thu hút khách du lịch. Các di sản khi đưa vào khai thác phục vụ phát triển du lịch thường tạo hiệu ứng tăng nhanh về số lượng khách du lịch. Lượng khách du lịch không chỉ bao gồm khách đến với khu vực có di sản mà bao gồm cả lượng khách quốc tế đến với Việt Nam và cùng đồng thời với việc tăng lượng khách du lịch là tăng tổng thu từ khách du lịch, tăng hiệu ứng lan tỏa tác động phát triển các ngành kinh tế khách, tăng thêm việc làm được tạo ra cho người dân.

Đơn cử như Hội An, Mỹ Sơn của Quảng Nam là trường hợp điển hình, ngay sau khi được công nhận 02 di sản thế giới thì lượng khách đến trong 01 năm ngay sau khi được công nhận đã tăng khoảng 4 lần, giai đoạn 10 năm tiếp theo (2002-2012) lượng khách quốc tế tăng khoảng 14 lần, khách nội địa tăng khoảng 50 lần, tổng thu từ khách du lịch tăng khoảng 35 lần. Năm 2018, Hội An đón được 2,3 triệu lượt khách, trong đó 2 triệu lượt khách quốc tế; Mỹ Sơn đón 375 nghìn khách, trong đó 335 nghìn khách quốc tế.

Với truyền thống văn hóa giàu có và đặc sắc, giá trị di sản văn hóa của Việt Nam luôn có sức hấp dẫn, thu hút khách du lịch quốc tế bởi đặc trưng của nền văn hóa Á Đông.

Với truyền thống văn hóa giàu có và đặc sắc, giá trị di sản văn hóa của Việt Nam luôn có sức hấp dẫn, thu hút khách du lịch quốc tế bởi đặc trưng của nền văn hóa Á Đông.

Tại một số khu vực khác, theo thống kê sơ bộ tại Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 thì chỉ tính riêng năm 2018, khách du lịch tới tham quan các khu di sản ở Việt Nam đem lại nguồn thu lớn từ vé tham quan: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) đón 4,1 triệu lượt khách, trong đó 2,82 triệu khách quốc tế, doanh thu là 1.184 tỷ đồng; Tràng An (Ninh Bình) đón 6,25 triệu khách, trong đó 700.000 khách quốc tế, doanh thu là 665,8 tỷ đồng.

Cố đô Huế đón 3,5 triệu khách, trong đó 2,3 triệu khách quốc tế, doanh thu 375 tỷ đồng; Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) đón 800.000 khách, trong đó 150.000 khách quốc tế, doanh thu là 231 tỷ đồng; Địa đạo Củ Chi (TP. HCM) đón 1,35 triệu khách, trong đó 670.000 khách quốc tế, doanh thu 141,9 đồng; Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) đón 1,6 triệu khách, doanh thu 46 tỷ đồng... Tổng thu từ khách du lịch tại các di sản được khai thác phục vụ du lịch đã đóng góp tích cực cho tổng đóng góp vào GDP của ngành du lịch. 

Tuy nhiên, trong dòng chảy của sự phát triển ấy, chính sự tăng trưởng và phát triển du lịch nhanh chóng đã đặt ra những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo quản lý di sản văn hóa một cách hiệu quả, nâng cao giá trị của di sản văn hóa cũng như thúc đẩy phát triển du lịch bền vững.

Nhiều giá trị di sản văn hóa bị thương mại hóa một cách quá mức, làm suy giảm giá trị văn hóa và truyền thống, phải nhạt bản sắc; Nhiều nét văn hóa truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán địa phương bị phá vỡ, biến đổi; sự đồng hóa văn hóa ngoại lai, những mâu thuẫn về chia sẻ lợi ích… 

Trong bối cảnh hiện nay, nhất là khi cách mạng công nghệ 4.0 đang rất phát triển, Du lịch sáng tạo trên nền tảng văn hóa được xem như một giải pháp, một hướng đi hữu hiệu để vượt qua được thách thức đặt ra. Du lịch sáng tạo mang đến nhiều hoạt động tương tác cho khách du lịch với văn hóa bản địa hơn, những hoạt động mang tính giáo dục, cảm xúc, trải nghiệm nhiều hơn.

Di sản văn hóa tạo động lực cho du lịch.

Di sản văn hóa tạo động lực cho du lịch.

Nhiều quốc gia trên thế giới đã phát triển du lịch sáng tạo theo cách riêng của mình để phát huy hiệu quả tài nguyên văn hóa trở thành những sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh cao. Chúng ta có thể thấy điển hình gần gũi là Hàn Quốc. Hàn Quốc đã xây dựng một chiến lược về Du lịch văn hóa, trong đó đề cập du lịch sáng tạo như một hướng đi trọng tâm. Du lịch sáng tạo ở Hàn Quốc tập trung vào khai thác giá trị văn hóa là "Làn sóng Hàn Quốc" (Hallyu Wave).

Theo đó các trào lưu về nhạc trẻ Hàn, phim truyền hình Hàn, điện ảnh, trò chơi điện tử, hoạt hình... được khai thác như là những tài nguyên du lịch hấp dẫn để thu hút người hâm mộ, tạo dựng sự kết nối với đất nước Hàn Quốc và từ đó có mong muốn tìm hiểu thêm về văn hóa truyền thống, lịch sử, con người của quốc gia này qua những chuyến du lịch.

Việt Nam cũng có nhiều lợi thế để phát triển loại hình du lịch sáng tạo dựa trên nền tảng văn hóa. Phát triển du lịch sáng tạo sẽ giúp du lịch Việt Nam đa dạng hóa hệ thống sản phẩm du lịch, gia tăng giá trị cho các sản phẩm du lịch văn hóa truyền thống, phát triển thương hiệu du lịch độc đáo và xúc tiến quảng bá tốt hơn thông qua hiệu ứng mạng xã hội, thu hút được thêm dòng khách trung cấp đến cao cấp, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh. 

Để làm được những điều này, cần có những điều chỉnh trong hoạch định chính sách và hành động. Nhìn nhận đúng vai trò của cộng đồng đối với việc bảo tồn phát huy các giá trị di sản; vai trò và quyền lợi và trách nhiệm của cộng đồng trong phát triển du lịch. Đảm bảo tính hài hòa giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển du lịch. 

Cần nghiên cứu kỹ, đảm bảo cơ sở phát triển bền vững trong triển khai hoạt động du lịch tại một số di tích, di sản văn hóa, đặc biệt khuyến khích phát triển các loại hình du lịch có trách nhiệm gắn với văn hóa cộng đồng, tôn trọng tính đa dạng văn hóa, tính chỉnh thể nguyên hợp của di sản văn hóa phi vật thể. 

Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương và địa phương cần triển khai điều tra, phân loại và đánh giá các tài nguyên du lịch một cách đồng bộ, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa.

Cần bảo đảm các nguyên tắc trong xây dựng sản phẩm du lịch. Thứ nhất, sản phẩm du lịch phải mang được linh hồn của văn hóa truyền thống, có nhiều yếu tố đặc sắc, đặc thù cho từng tộc người, từng vùng, miền khác nhau (đặc sắc về không gian, thời gian, lịch sử tộc người...), qua đó nâng cao giá trị, gia tăng sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm du lịch; khắc phục tình trạng sản phẩm du lịch na ná giống nhau hiện nay.

Di sản văn hóa là nguồn lực cơ bản để phát triển du lịch.

Di sản văn hóa là nguồn lực cơ bản để phát triển du lịch.

Thứ hai, kết hợp hài hòa giữa tính đa dạng của nhiều loại hình sản phẩm và tính chuyên đề của một gói sản phẩm du lịch văn hóa (sản phẩm du lịch văn hóa có hấp dẫn hay không cần phải truyền đạt thông điệp chung hướng về chân - thiện - mỹ, đồng thời cũng mang những sắc thái lạ, hấp dẫn).

Thứ ba, quyết liệt trong việc đảm bảo chất lượng trong xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa dân tộc thiểu số. Các chương trình văn nghệ, các nghi lễ trình diễn, các sinh hoạt văn hóa của các dân tộc thiểu số phải tôn trọng tính khách quan, chân thực của sắc thái văn hóa các dân tộc.

Xây dựng cơ chế phối hợp và phân chia nguồn lợi từ du lịch di sản văn hóa. Xây dựng các điểm đến du lịch di sản văn hóa là công việc mới mẻ đối với người dân, đồng thời là lĩnh vực kinh doanh phức tạp.

Vì vậy, phát triển du lịch di sản văn hóa cần có sự kết hợp của các bên liên quan (Người dân, doanh nghiệp, nhà nghiên cứu, chính quyền địa phương). Người dân ở địa phương là chủ thể chính trong các hoạt động du lịch văn hóa tại các điểm du lịch cần được khuyến khích tự nguyện tham gia hoạt động du lịch di sản văn hóa một cách sáng tạo.

Doanh nghiệp là đối tác đưa khách đến điểm du lịch. Nhờ có doanh nghiệp, điểm du lịch di sản văn hóa mới phát triển được. Doanh nghiệp đóng vai trò cung cấp du khách, đồng thời cũng đóng vai trò hỗ trợ vốn cho cộng đồng, tập huấn cho cộng đồng về cách thức tổ chức, kinh doanh hoạt động du lịch di sản văn hóa. Cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào du lịch di sản.

Các nhà nghiên cứu, chuyên gia tư vấn là các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu về văn hóa, dân tộc, di sản... đóng vai trò nghiên cứu, tư vấn cho người dân, chính quyền địa phương, doanh nghiệp xây dựng các mô hình du lịch di sản hoạt động hiệu quả và bền vững.

Cơ quan quản lý nhà nước, Chính quyền địa phương  đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng, đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù cho các điểm du lịch di sản ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời giữ vai trò điều hòa lợi ích giữa người dân và doanh nghiệp.

Với mục tiêu đến năm 2030, Du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, Việt Nam sẽ là quốc gia du lịch, nằm trong danh sách các nước có ngành du lịch phát triển trong khu vực, dặc biệt, ngay trong thời gian tới, để phục hồi và phát triển du lịch vượt qua khủng hoảng nặng nề, nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, Ngành Du lịch và Văn hóa Việt Nam sẽ có nhiều việc, nhiều giải pháp cần làm nhưng có thể chắc chắn một điều phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch sẽ có vai trò to lớn, tạo ra chiều sâu chất lượng và sự hồi phục, bứt phá cho Du lịch Việt Nam, góp phần quan trọng đạt được các mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và cả xã hội mong đợi.

Có thể bạn quan tâm

  • HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC: Hà Nội vận dụng sáng tạo đường lối phát triển văn hóa của Đảng

    10:37, 24/11/2021

  • HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC: Giá trị văn hóa phát huy cao độ trong đại dịch COVID-19

    10:20, 24/11/2021

  • HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC: 6 kiến nghị của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch

    10:01, 24/11/2021

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC: Du lịch - “quyền lực mềm” của di sản văn hóa
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO