Báo cáo mới về tăng trưởng của các nền kinh doanh do Viện Toàn cầu McKinsey (MGI) vừa công bố đánh giá cao vai trò trọng yếu của doanh nghiệp.
Báo cáo phân tích 71 nền kinh tế mới nổi và 20 nền kinh tế đã phát triển trong vòng 50 năm từ 1965 tới 2016. Báo cáo này tập trung vào phân tích sơ đồ tăng trưởng kinh tế trong thời gian dài của các nền kinh tế đang phát triển.
Theo báo cáo, MGI cho biết, các nền kinh tế mới nổi chiếm gần hai phần ba mức tăng trưởng GDP của thế giới và hơn một nửa mức tiêu dùng mới trong 15 năm trở lại đây. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế của từng quốc gia trong nhóm này lại có sự khác biệt rất đa dạng về căn bản. Do đó, phân tích về Hiệu quả vượt trội: Các nền kinh tế mới nổi với sức tăng trưởng cao và những doanh nghiệp hậu thuẫn, MGI cho rằng một số nền kinh tế mới nổi được xác định là đạt mức tăng trưởng cao và nhất quán hơn các nền kinh tế khác trong nhóm.
Cụ thể, trong tổng số 71 nền kinh tế được phân tích trong báo báo, có 18 nền kinh tế - khoảng một phần tư – được đánh giá là “đạt hiệu quả vượt trội hơn” và được thể hiện ở 2 nhóm:
Nhóm 1, 7 nền kinh tế đã tăng trưởng GDP bình quân đầu người hơn 3,5% trong vòng 50 năm, từ 1965 đến 2016. Các nền kinh tế này bao gồm: Trung Quốc, Hồng Kông, Indonesia, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc và Thái Lan.
Có thể bạn quan tâm
05:03, 04/09/2018
11:10, 20/07/2018
11:00, 07/07/2018
14:54, 04/07/2018
Nhóm 2, 11 nền kinh tế khác có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, trong khoảng thời gian ngắn hơn, đạt mức 5% mỗi năm trong 20 năm từ 1996 đến 2016. Các nền kinh tế này bao gồm: Azerbaijan, Belarus, Campuchia, Ethiopia, Ấn Độ, Kazakhstan, Lào, Myanmar, Turkmenistan, Uzbekistan và Việt Nam.
Theo báo cáo, dù có sự khác biệt giữa tính chất và chính sách của các nền kinh tế này, các nền kinh tế vượt trội hơn vẫn có sự tương đồng trong hai yếu tố cơ bản. Một là, có chính sách hỗ trợ tăng trưởng với mục tiêu hình thành một vòng tuần hoàn hiệu quả về năng suất, thu nhập và nhu cầu, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đảm bảo sự ổn định, thúc đẩy cạnh tranh và sáng tạo đổi mới. Hai là, vai trò trọng yếu của các doanh nghiệp lớn - nhưng bị đánh giá thấp – trong việc thúc đẩy năng suất và sự tăng trưởng. Theo cách tính toán có sự điều chỉnh theo quy mô của nền kinh tế, 18 nền kinh tế được đánh giá là vượt trội hơn trong báo cáo này có số lượng doanh nghiệp quy mô lớn nhiều gần gấp đôi so với các quốc gia đang phát triển khác (doanh nghiệp quy mô lớn được định nghĩa là các doanh nghiệp niêm yết công khai với doanh thu hàng năm trên 500 triệu USD).
“Các chuyên gia kinh tế phát triển đã nghiên cứu và có rất nhiều bài viết về các chính sách thúc đẩy tăng trưởng tại các nền kinh tế mới nổi, và dĩ nhiên các chính sách hợp lý là yếu tố vô cùng cần thiết”, ông Jonathan Woetzel, Giám đốc Viện Toàn cầu McKinsey kiêm Giám đốc Hợp danh Cao cấp văn phòng McKinsey & Company Thượng Hải, một trong các tác giả báo cáo cho biết. “Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy vai trò then chốt của các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao trong việc thúc đẩy tăng trưởng GDP – nhưng vai trò này thường xuyên bị bỏ quên”.
James Manyika, chủ tịch Viện Toàn cầu McKinsey kiêm Giám đốc Hợp danh Cao cấp văn phòng McKinsey tại San Francisco cho biết: “Việc giải mã sự phối hợp giữa các chính sách nâng cao năng suất và các động lực cạnh tranh tại các nền kinh tế mới nổi vượt trội này sẽ rút ra bài học hữu ích cho tất cả các quốc gia, bao gồm các nền kinh tế mới nổi cũng như các nền kinh tế đã phát triển, trong bối cảnh tăng trưởng năng suất toàn cầu đang suy yếu”.
Báo cáo cho thấy, việc nhân rộng công thức thành công của các nền kinh tế vượt trội hơn cho tất cả các nền kinh tế mới nổi khác có thể đóng góp thêm 11 nghìn tỷ USD cho kinh tế thế giới đến năm 2030, tức là tăng 10% tương đương với quy mô của nền kinh tế Trung Quốc. Trong đó, 8 nghìn tỷ USD có thể được đóng góp trực tiếp từ các nền kinh tế chưa khởi sắc hiện nay, với điều kiện các nền kinh tế này đạt được mức tăng trưởng năng suất tương đương các nước vượt trội hơn. Với sự thúc đẩy năng suất từ các quốc gia này, các nền kinh tế mới nổi có thể tiếp tục đóng góp hơn hai phần ba tăng trưởng toàn cầu vào năm 2030.
Báo cáo ghi nhận rằng làn sóng tăng trưởng toàn cầu tiếp theo có thể được dẫn đầu bởi một nhóm các thị trường mới nổi vượt trội. Một mặt, các thị trường này có thể thực hiện thành công nghị trình hỗ trợ tăng trưởng trong khi tiếp tục tạo điều kiện để các doanh nghiệp lớn tăng năng suất hoạt động. Mặt khác, các thị trường này có khả năng thích ứng cao với sự thay đổi của bối cảnh toàn cầu. Công nghiệp sản xuất tại các nước đang phát triển có vẻ như đang đạt đến mức cao điểm nhanh hơn so với trước đây.
Ví dụ, tự động hóa đang trở nên ngày càng phổ biến và dòng chảy thương mại xuyên biên giới đã mất đi ít nhiều động lực kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Các nền kinh tế mũi nhọn mới có thể sẽ nổi lên và tạo ra được nhiều cơ hội. Đơn cử, việc Trung Quốc dần chuyển hướng từ một nền sản xuất thâm dụng lao động sang sản xuất dựa trên nghiên cứu và phát triển chuyên sâu đang tạo cơ hội cho Ấn Độ, Việt Nam và các nền kinh tế mới nổi khác, đặc biệt cho hàng hóa sản xuất tại các nước có thu nhập thấp như Indonesia và Uzbekistan.
Nhìn chung, tỷ trọng thương mại hàng hóa giữa các thị trường mới nổi, giữa các nước đang phát triển với nhau và giữa Trung Quốc với các nước đang phát triển, đã tăng từ 8% năm 1995 lên 20% năm 2016. Ngay cả những số liệu dự báo khiêm tốn nhất cũng cho thấy, các nền kinh tế mới nổi sẽ chiếm xấp xỉ 50% tăng trưởng toàn cầu vào năm 2030, và con số này có thể tăng lên 72% nếu các nước này có thể nâng cao năng suất để GDP toàn cầu đạt mức 11 nghìn tỷ USD. Động lực tăng trưởng mạnh mẽ đó sẽ tiếp tục thúc đẩy cơ hội cho hợp tác thương mại giữa các nước đang phát triển.
Ở phần nghiên cứu chuyên sâu về từng khu vực, MGI nhận diện một số quốc gia bao gồm Bangladesh, Philippines, Rwanda và Sri Lanka có khả năng tạo nên một làn sóng các nền kinh tế vượt trội trong tương lai nếu các quốc gia này tiếp tục thiết lập được các yếu tố căn bản hỗ trợ nền kinh tế và duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh mà họ đã đạt được trong thời gian gần đây.