Theo dự thảo quy hoạch điện VIII thì tổng công suất nguồn điện năm 2020 đã lắp đặt khoảng 69,094 MW, vượt 9000MW so với quy hoạch điện VII đã dự báo. Điều này đang gây mất niềm tin của doanh nghiệp do phải cắt giảm công suất và hoạt động cầm chừng. Vậy để đưa ra giải pháp cân đối tổng công suất nguồn điện thì chúng ta nên căn cứ phân tích vào những yếu tố nào?

Cần có những kế hoạch chuyển đổi năng lượng sạch phát triển sát thực tế

Cần có những kế hoạch chuyển đổi năng lượng sạch phát triển sát thực tế

Trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp TS. Nguyễn Xuân Huy, chuyên gia kinh tế năng lượng, ĐH Bách Khoa – ĐHQG TP.HCM cho biết, Việt Nam cần đưa ra các biện pháp kiểm soát và đối xứng, tổng quan cơ cấu nguồn điện. Đồng thời cũng nên tham khảo kinh nghiệm phân bổ quy hoạch tổng thể quy hoạch cơ cấu nguồn điện của các nước phát triển trong khu vực để đưa một bức tranh tổng thể về chiến lược quy hoạch. Điều này giúp EVN kiểm soát được sản lượng điện bao nhiêu là phù hợp với quy mô nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.

Để phân tích rõ nguyên nhân gia tăng đột biến trong cơ cấu nguồn điện xuất phát từ đâu, nhóm chuyên gia chọn lựa ba mốc thời gian kết thúc năm là 2015, 2019 và 2020 tương ứng với tổng công suất nguồn đã lắp đặt là 38,893 MW; 59,939 MW và 69,094 MW (Viện năng lượng, 2021). Trong đó, tổng công suất nguồn điện trong Quy hoạch 7 đề ra là 60,000 MW như là điều kiện ràng buộc giới hạn trên, dựa trên khả năng hệ thống truyền tải cho phép. Dựa trên báo cáo tổng công suất nguồn điện năm 2020, cho thấy nguồn điện mặt trời các loại hình đã lắp đặt chiếm 24% tổng công suất nguồn, tăng gấp 19.64 lần so với quy hoạch 7.

Đối chiếu với các quốc gia phát triển và khu vực lân cận cho thấy các dạng năng lượng thủy điện, nhiệt điện than và năng lượng mặt trời đã được lắp đặt ở Việt Nam chiếm tỷ lệ cao nhất, trong khi các quốc gia khác đã có những bước chuyển đổi sang dạng năng lượng sạch với tỷ lệ thận trọng và bền vững hơn.

Cụ thể: đối với đất nước Singapore gần vùng xích đạo, cơ cấu nguồn điện tập trung phát triển điện khí (95%), gần đây chỉ mới lắp đặt 350 MW điện mặt trời, 260 MW điện sinh khối/ điện rác và một số còn lại nhập điện từ nước láng giềng Malaysia (Singapore Energy Statitics, 2020).

Với ốc đảo có diện tích hạn chế thì cơ cấu nguồn điện khí là chủ yếu rất phù hợp với xu hướng thế giới vì hiệu suất phát điện lên đến hơn 85%. Ngoài ra, điện mặt trời áp mái phát triển phân tán, tự tiêu dùng đang tăng trưởng nhanh. 

Việc tăng trưởng tỷ lệ nguồn NLTT phải đi đôi với sự phát triển bền vững nền kinh tế

Việc tăng trưởng tỷ lệ nguồn năng lượng tái tạo phải đi đôi với sự phát triển bền vững nền kinh tế.

Đối với Thái Lan là quốc gia có điều kiện khí hậu & nông nghiệp tương đồng với Việt Nam, tổng công suất nguồn điện theo Bộ Năng Lượng Thái Lan là 46,500 GW gần tương đương với tổng công suất nguồn của Việt Nam là 47,900 GW (2018), trong đó điện khí chiếm 50%, thủy điện 20%, điện sinh khối 7.7 %, điện gió 8%, điện mặt trời 7%, còn lại là nhập khẩu và các dạng năng lượng khác.

So với cơ cấu nguồn điện với Việt Nam thì sự phát triển năng lượng tái tạo của Thái Lan khá đa dạng, đồng đều và có sự kiểm soát tốt của chính phủ dựa trên quy hoạch điện ban hành trong giai đoạn 2015 – 2036 (IRENA, 2017). Nguồn điện năng lượng tái tạo Thái Lan phát triển từ sớm, đến nay đã chiếm gần 23% tổng công suất nguồn điện, chỉ còn 2% để đạt mục tiêu khoảng 25% đến năm 2036 (gần 20,000 MW) nên đã ngưng đầu tư phát triển, do đó các nhà đầu tư Thái Lan đang chuyển dịch vốn đầu tư và công nghệ sang Việt Nam để phát triển các dự án năng lượng tái tạo mới.    

Đối với đất nước Malaysia, tổng cơ cấu nguồn điện cung cấp nền kinh tế cho 32 triệu dân vào khoảng 34,000 MW, bao gồm điện khí chiếm 47%, nhiệt điện than 31%, thủy điện 18%, phần còn lại 4% là phát triển năng lượng tái tạo, trong đó điện mặt trời chiếm 2.33% và sinh khối & điện rác là 1.67% (IRENA, 2020).

Do Malaysia nằm ở vùng xích đạo, thuộc vịnh Thái Lan nên tốc độ gió rất thấp, chỉ đạt được 2-3 m/s nên không phát triển điện gió mà chỉ tập trung phát triển điện mặt trời phân tán, điện sinh khối và điện rác. Lộ trình phát triển năng lượng tái tạo theo tỷ trọng trong cơ cấu nguồn điện ở Malaysia, lấy mục tiêu đạt khoảng 25% tổng công suất nguồn cho đến 2030.

Đối với Hàn Quốc, một quốc gia phát triển nhanh ở Bắc Á có điều kiện khí hậu khắc nghiệt, tổng cơ cấu nguồn điện vào khoảng 127,000 MW, phát triển phong phú và đa dạng loại năng lượng bao gồm điện khí (36%), nhiệt điện than (30%) và hạt nhân (20%) chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ lệ 14% còn lại là các dạng năng lượng tái tạo khác, trong đó có sinh khối (4.8%) và điện mặt trời (4.6%), điện gió chỉ mới lắp đặt khoảng 1200 MW (4.6%). Hàn Quốc đang có lộ trình chuyển đổi tăng tỷ trọng năng lượng sạch lên, đặc biệt giảm nguồn nhiệt điện than và điện hạt nhân.

Theo nhóm chuyên gia, dựa trên cơ cấu nguồn điện các quốc gia cho thấy sự tăng trưởng nguồn năng lượng tái tạo ở Việt Nam là cao nhất trong thời gian rất ngắn (2019 - 2020), hiện chiếm 26% tổng công suất nguồn điện, đặc biệt là nguồn điện mặt trời cao gấp 22 lần so với giới hạn cho phép trong quy hoạch điện 7. Trong khi đó, Malaysia, Singapore, Philipin có tỷ trọng phát triển năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn điện trong năm năm đầu tiên rất thấp khoảng dưới 7%, sau đó tăng dần theo lộ trình 20 năm nhưng tỷ trọng không vượt quá 25% tổng công suất nguồn điện.

Nguồn điện năng lượng tái tạo của Hàn Quốc cũng chỉ chiếm 14% trong cơ cấu nguồn (2020) và đang có lộ trình tăng dần lên 20% vào năm 2030, trong đó điện mặt trời chiếm 36,500 MW, điện gió 17,700 MW.

Với tỷ trọng năng lượng tái tạo chiếm gần ¼ trong cơ cấu nguồn điện như Việt Nam hiện nay sẽ tương đương với nền kinh tế phát triển ở bang Texas (Mỹ), nơi có phát triển điện gió ngoài khơi và trên bờ chiếm gần 25% công suất nguồn (31,000 MW).

Do vậy, việc tăng trưởng tỷ lệ nguồn năng lượng tái tạo phải đi đôi với sự phát triển bền vững nền kinh tế trong từng thời kỳ. Vì năng lượng tái tạo là xu hướng tốt mang tính bền vững, nhưng việc phát triển mất cân đối do tăng trưởng nhanh quá và nóng quá so với cơ cấu nguồn điện quốc gia sẽ dẫn đến một số vấn đề bất cập về mặt kỹ thuật, khai thác không hiệu quả, ảnh hưởng đến sự phát triển các nguồn điện bền vững khác và an ninh năng lượng quốc gia.