Thiết lập hệ thống bảo tồn giống lợn bản địa

Khắc Lãng thực hiện 30/03/2020 17:00

Dự án bắt đầu từ tháng 5/2015, thực hiện khảo sát lợn bản địa Việt Nam tại 22 tỉnh và thiết lập cơ sở dữ liệu gồm các nhận dạng, phân loại, đặc tính...

Dự án “Thành lập hệ thống ngân hàng gien đông lạnh cho các giống lợn bản địa Việt Nam và phát triển hệ thống chăn nuôi bền vững để bảo vệ đa dạng sinh học” là Dự án nằm trong Chương trình Hợp tác nghiên cứu khoa học và công nghệ phát triển bền vững (SATREPS), do Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) và Cơ quan Khoa học và Công nghệ Nhật Bản (JST) đồng tài trợ và thực hiện với Viện Chăn nuôi. 

Dự án kéo dài 5 năm và dự kiến sẽ kết thúc vào tháng 5 năm 2020.

Theo GS. Kazuhiro Kikuchi, Dự án bắt đầu từ tháng 5/2015, thực hiện khảo sát lợn bản địa Việt Nam tại 22 tỉnh và thiết lập cơ sở dữ liệu gồm các nhận dạng, phân loại, đặc tính...

- Thưa ông, nội dung cụ thể của dự án này là gì?

Dự án gồm bốn hợp phần chính: Thứ nhất, khảo sát đặc điểm kiểu hình, di truyền của lợn bản địa Việt Nam và bảo quản đông lạnh tinh trùng và thiết lập hệ thống ngân hàng tinh trùng (ngân hàng gen).

Thứ hai, phát triển kỹ thuật sinh sản: sản xuất phôi trong ống nghiệm, đông lạnh tế bào trứng và phôi, nhân bản. Ngoài ra, các nghiên cứu để thiết lập một kỹ thuật chuyển nhân tế bào soma cũng đã được thực hiện.

Thứ ba, khảo sát tình hình dịch bệnh tại các trại nuôi lợn bản địa ở Việt Nam.

Thứ tư, cải thiện việc quản lý chăn nuôi lợn bản địa Việt Nam để tăng năng suất.

br class=

Lợn Móng Cái có xuất xứ từ tỉnh Quảng Ninh, được phân bố đầu tiên tại các địa phương vùng Đông Bắc nước ta.

- Sau gần 5 năm (5/2015 – 5/2020) nghiên cứu về lợn bản địa Việt Nam, ông có phát hiện, thu nhận được điểm gì mới?

Trước hết, lợn bản địa Việt Nam chịu được điều kiện chăn nuôi kém vì chúng sống bằng thức ăn sống, nhưng thịt lại rất ngon- điều này rất quan trọng về mặt thực phẩm, vì nó làm tăng cơ hội xây dựng thương hiệu thịt lợn bản địa.

Ngoài ra, nhiều giống lợn bản địa của Việt Nam có kích thước nhỏ (lợn nhỏ có trọng lượng chỉ 40-50kg), có nghĩa là chúng có thể được dùng phục vụ mục đích y học - điều này có thể tạo ra nhu cầu tiềm năng và cơ hội thương mại trong tương lai.

- Thưa ông, dịch tả lợn Châu Phi có ảnh hưởng tới quá trình triển khai Dự án?

Dịch tả lợn Châu Phi (ASF) đã khiến một số hoạt động theo kế hoạch bị hủy bỏ. Tuy nhiên, các hoạt động chăn nuôi tại Trung tâm Nghiên Cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái Nguyên không bị ảnh hưởng do có các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát. Điều này đã cho chúng tôi niềm tin có thể ngăn chặn được ASF.

Sự lây lan của ASF cũng cho chúng ta một thông điệp quan trọng về bảo tồn nguồn gen, vì một khi nguồn gen bị mất đi do các bệnh truyền nhiễm, không có cách nào phục hồi được.

Vì vậy, tôi cho rằng, việc tìm kiếm và chăn nuôi giống lợn không bị nhiễm virus là rất cần thiết, bởi giống lợn bản địa Việt Nam có tiềm năng như vậy.

- Sự đóng góp của Dự án cho mục tiêu phát triển bền vững (SDG) là gì, thưa ông?

Việc chỉ bảo tồn tài nguyên lợn không thể đóng góp vào mục tiêu trên. Bảo tồn thực vật như ngũ cốc làm nguồn thức ăn cũng là cần thiết. Xử lý phân và chất thải từ chăn nuôi lợn không đúng cách sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường.

Nói cách khác, tất cả điều đó sẽ quay trở lại xã hội loài người. Mặt khác, rõ ràng việc tiêu thụ thịt lợn và sử dụng lợn cho mục đích y học cũng đóng góp cho xã hội loài người.

Tôi hy vọng rằng Dự án và các kết quả đầu ra của nó sẽ tạo cơ hội cho mọi người suy nghĩ về mục tiêu phát triển bền vững.

- Xin cảm ơn ông!

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
Thiết lập hệ thống bảo tồn giống lợn bản địa
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO