Với mục tiêu nâng cao trải nghiệm cho người dân và tiết kiệm chi phí vận hành, các cơ quan quản lý và vận hành giao thông xác định việc triển khai hệ thống thẻ vé tự động là ưu tiên quan trọng.
Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy và chuyển đổi hướng tới hệ thống giao thông thông minh, đặc biệt là lĩnh vực giao thông công cộng.
Với mục tiêu nâng cao trải nghiệm cho người dân và tiết kiệm chi phí vận hành, các cơ quan quản lý và vận hành giao thông đã xác định việc triển khai hệ thống thẻ vé tự động là một trong những ưu tiên quan trọng. Không chỉ dừng lại ở hệ thống metro, các dự án giao thông công cộng như xe buýt, bãi đỗ xe cũng đang tiến hành triển khai thí điểm hệ thống thẻ vé tự động với nhiều công nghệ mới. Mặc dù vậy, hoạt động này vẫn chưa được nhân rộng tạo thuận lợi cho người dân, hành khách cũng như các đơn vị vận hành.
Tại Tọa đàm "Giải pháp thanh toán thông minh phục vụ giao thông hiện đại", ông Đỗ Việt Hải, Phó Giám đốc Sở Xây dựng TP Hà Nội cho biết, đối với Hà Nội, sự cần thiết xây dựng chính sách và kế hoạch cụ thể đã được đặt ra từ rất sớm. Hiện nay, Hà Nội về cơ bản đã xây dựng xong các chính sách để phát triển hệ thống thẻ vé thông minh. Một trong những lý do đầu tiên và quan trọng nhất đặt ra vấn đề xây dựng hệ thống thẻ vé liên thông là nhu cầu thực tế. Như chúng ta đã biết, hiện nay Chính phủ đã có các quy định về không dùng tiền mặt, nhằm tạo sự thuận tiện, văn minh, thân thiện, minh bạch cho người tham gia giao thông đối với hệ thống giao thông vận tải hành khách công cộng. Hệ thống này không chỉ dừng lại ở giao thông vận tải hành khách công cộng mà còn kết nối với các loại hình giao dịch khác trong tương lai. Đây là một trong những mục tiêu chúng tôi đang và sẽ cố gắng phấn đấu đạt được, nhằm hiện thực hóa nội dung này.
Đánh giá sau quá trình vận hành vé tại Metro, ông Khuất Việt Hùng, Chủ tịch HĐQT Metro Hà Nội chia sẻ, hiện nay, ở Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh đang sử dụng hệ thống thu soát vé tự động. Ở Hà Nội, từng tuyến có hệ thống riêng, người nào sử dụng vé tháng thì rất thuận tiện, đi vào đi ra ổn định, không vấn đề gì. Nhưng nếu mua vé lượt thì phải đến nhà ga rồi đưa tiền cho nhân viên bán vé hoặc mua bằng máy bán vé. Ngoài ra, thẻ vé của hai tuyến chưa liên thông được với nhau. Đây là hai điểm bất tiện, tạm gọi là nhược điểm. Còn hai hệ thống thu soát vé tự động của cả hai tuyến này nếu hoạt động đơn tuyến rất tin cậy. Việc xử lý thông tin rất chính xác và tốc độ đóng mở cửa rất nhanh, bởi vì thông tin đơn giản. Đấy là ưu điểm lớn nhất của hệ thống này. Đặc biệt trong giờ cao điểm, hành khách phải đi ra, đi vào cổng rất nhiều nên hệ thống càng đơn giản, đóng mở càng nhanh thì thoát càng nhanh.
Theo đó, ông Hải khẳng định rằng, để xây dựng được hệ thống thẻ vé liên thông này, ngoài các khung kỹ thuật, các đề án về phát triển giao thông đô thị thông minh, cần xây dựng một chính sách vé cụ thể cho từng loại hình vé, từng loại hình dịch vụ và bảo đảm tính mở, tính kết nối không chỉ với các loại hình dịch vụ vận tải hành khách mà còn với các loại hình dịch vụ khác. Hệ thống này không chỉ liên thông với vận tải hành khách công cộng mà còn liên thông với thu phí tự động, các bến bãi đỗ xe và sử dụng dịch vụ không chỉ trên địa bàn Thủ đô.
"Chúng tôi hy vọng rằng trong thời gian tới, hệ thống thẻ vé liên thông này sẽ kết nối trên toàn bộ Việt Nam. Đối với chính sách vé, ngoài các nội dung mà chúng tôi tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá, lựa chọn mô hình phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, chúng tôi áp dụng mô hình đã được triển khai rất hiệu quả và hữu ích ở các thành phố lớn tại châu Á, với mục tiêu cuối cùng là khuyến khích người dân sử dụng vận tải công cộng" - Phó Giám đốc Sở Xây dựng TP. Hà Nội bày tỏ.
Từ góc độ đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán, ông Nguyễn Hoàng Long, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Thanh toán Quốc gia Việt Nam (NAPAS) cho biết, các ngân hàng và NAPAS đã sẵn sàng về hạ tầng kỹ thuật, nghiệp vụ và sản phẩm để kết nối hệ thống thu soát vé tự động với mạng lưới thanh toán không tiền mặt.
"Chúng ta có thể học hỏi các quốc gia đi trước để rút ngắn quá trình triển khai, không nên phát triển những hệ thống đóng, riêng lẻ mà cần hướng tới một hệ thống mở, mang tính liên thông cao. Mục tiêu là đến ngày 2/9 sẽ có hệ thống hiện đại, đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn thanh toán không dùng tiền mặt và quản lý thẻ vé giao thông hiệu quả", ông Long nhấn mạnh.
Nêu kinh nghiệm từ Nhật Bản với gần 100 năm vận hành tại Tokyo, ông Satoru Horiuchi, Tổng giám đốc Công ty Tokyo Metro Việt Nam chia sẻ, Công ty này đã áp dụng hệ thống thu tiền vé tự động (AFC) để nâng cao sự thuận tiện cho hành khách cũng như công tác quản lý và vận hành. Hiện nay thẻ vé thông minh đã được sử dụng thống nhất tại Nhật Bản.
Còn theo ông Fukuda Chihiro, Phó Trưởng Đại diện JICA tại Việt Nam, hệ thống AFC có 3 điểm đáng chú ý, một là tính hiệu quả và minh bạch trong vận hành. Hệ thống này giúp việc đi tàu trở nên thuận tiện nên hiệu suất vận tải được nhân lên, áp lực công việc của nhân viên thu phí được giảm bớt. Đồng thời, tránh được việc bỏ sót thu phí và những hành vi gian lận, quản lý việc thu phí theo thời gian thực bằng việc số hóa dữ liệu doanh thu.
Hai là tính thuận tiện cho người sử dụng tăng lên. Hệ thống sẽ giúp hoàn thiện hạ tầng nhằm tối ưu sự thuận tiện của phương tiện giao thông công cộng. Qua đó nâng cao mức độ hài lòng của người dân, góp phần tăng số lượng người sử dụng lâu dài.
Thứ ba là cải thiện chính sách về giao thông và kế hoạch vận hành. Dựa trên số liệu sử dụng có thể nắm được tình hình vận hành các tuyến và khung giờ đông đúc, điều chỉnh giờ chạy tàu, thiết kế các tuyến đường sắt và xem xét chiến lược cấp phí. Từ đó góp phần xây dựng cơ chế vận hành tốt hơn.
Phó Trưởng đại diện JICA tại Việt Nam cho rằng, khi mở rộng mạng lưới thanh toán, càng nhiều chủ thể tham gia thì hệ thống càng cần được điều phối chặt chẽ.
"Việc phối hợp giữa Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức tín dụng là điều kiện tiên quyết. Hệ thống cần có khả năng tích hợp không chỉ với giao thông công cộng mà cả bãi đỗ xe, cửa hàng. Ngay từ đầu, cần xây dựng bộ quy chuẩn thống nhất, đảm bảo an ninh thông tin và phòng chống gian lận", ông Fukuda nói.
Đặc biệt, ông nhấn mạnh, việc triển khai hệ thống thanh toán điện tử đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu lớn, nên không thể giao hoàn toàn cho doanh nghiệp. Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ tài chính và chính sách phù hợp để đảm bảo hiệu quả lâu dài.
Khẳng định việc liên thông là khả thi, ông Khuất Việt Hùng nhấn mạnh: "Chúng ta hoàn toàn làm được cả về công nghệ lẫn thể chế. Điều quan trọng là phải thiết kế hệ thống xác định rõ vai trò của doanh nghiệp, cơ quan quản lý Nhà nước trong thanh toán bù trừ, quản lý dữ liệu và xây dựng thể chế chính sách".