Các nút thắt thể chế, quản trị và liên kết vùng: 5 xu hướng chiến lược phát triển vùng ĐBSCL

Diendandoanhnghiep.vn Báo cáo Kinh tế Thường niên Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được thực hiện bởi nhóm các chuyên gia kinh tế, chính sách hàng đầu Việt Nam.

>>>Công bố Báo cáo kinh tế thường niên vùng ĐBSCL năm 2023

LTS:  Báo cáo Kinh tế Thường niên Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ 3 do Liên Đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp cùng Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (Đại học Fulbright Việt Nam) thực hiện. Chủ đề của Báo cáo năm nay là “Các nút thắt thể chế, quản trị và liên kết vùng”. VCCI thực hiện xây dựng và công bố báo cáo này theo yêu cầu của Chính phủ tại Nghị quyết 57/NQ-CP ngày 21/4/2022 về các nhiệm vụ giải pháp hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế xã hội. Nghị quyết 57 có nêu rõ trách nhiệm của VCCI “chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan theo dõi, đánh giá độc lập và có báo cáo định kỳ về tính tổng thể trong phát triển kinh tế - xã hội các vùng, về hiệu quả hoạt động phối hợp, liên kết vùng của từng địa phương”.

Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp trân trọng giới thiệu nội dung tóm tắt báo cáo thường niên, ấn phẩm có giá trị quan trọng trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá các cơ hội, thách thức lớn tác động đến kinh tế của vùng, giúp cho các cơ quan quản lý, các nhà nghiên cứu, cộng đồng doanh nghiệp tìm hiểu và xây dựng chương trình hành động để thích ứng, cùng thúc đẩy vùng đồng bằng này phát triển ổn định và bền vững.

ĐBSCL có 13 đơn vị hành chính bao gồm: 1 thành phố trực thuộc Trung ương (Cần Thơ) và 12 tỉnh (Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau).

ĐBSCL có 13 đơn vị hành chính bao gồm: 1 thành phố trực thuộc Trung ương (Cần Thơ) và 12 tỉnh (Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau).

Trong giai đoạn sau COVID-19, tương tự như diễn biến kinh tế cả nước, kinh tế của vùng ĐBSCL phục hồi mạnh mẽ trong năm 2022 nhưng chậm hẳn lại trong năm 2023. Tăng trưởng kinh tế vùng ĐBSCL trong năm 2022 đạt 8,5% và là lần đầu tiên sau hơn 10 năm, tăng trưởng kinh tế của Vùng mới lại cao hơn mức bình quân cả nước. Xu hướng này được duy trì đến quý III/2023, với mức tăng trưởng 6,0% so với cùng kỳ, cao hơn mức 4,2% của Việt Nam. Đóng góp vào sự tăng trưởng ấn tượng trong 2 năm qua là sự hồi phục mạnh mẽ của khu vực công nghiệp và dịch vụ với mức tăng trưởng năm 2022 đạt 11,8% so với cùng kỳ. Trong khi đó, ngành nông nghiệp vẫn duy trì được mức tăng trường ổn định so với giai đoạn trước. Tương tự với thương mại, tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ của ĐBSCL có xu hướng tương đồng với tăng trưởng trung bình của Việt Nam.

Trong năm 2023, xuất khẩu suy giảm do kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm và sự đóng băng của thị trường bất động sản là hai nguyên nhân chính dẫn tới sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 3 quý đầu năm 2023, và điều này đã ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế ĐBSCL. Đầu tiên, là sự sụt giảm của chỉ số sản xuất công nghiệp trong 9 tháng đầu năm 2023. Dù kết quả tương đối lạc quan hơn so với trung bình cả nước, song vẫn thấp hơn đáng kể so với trung bình của Vùng trong năm 2022 và thấp hơn so với thời điểm trước dịch COVID-19.

Tình hình doanh nghiệp cũng không sáng sủa. Trong 9 tháng đầu năm 2023, số doanh nghiệp thành lập mới tại ĐBSCL giảm 6,5% so với cùng kỳ, trong khi số vốn đăng ký giảm tới 42%, và số việc làm đăng ký giảm 35,6%. Đây là mức giảm sâu nhất trong các vùng kinh tế của Việt Nam. Trong khi đó, số doanh nghiệp giải thể tăng 21,2%, cao hơn mức trung bình của cả nước là 18,3%. Như vậy, có thể thấy các tác động tiêu cực trong kinh tế vĩ mô của quốc gia cũng đang thể hiện ngày một rõ nét trong kinh tế Vùng. Diễn biến chi tiết về tình hình kinh tế của ĐBSCL và các thách thức đặt ra trong thời gian tới sẽ được phân tích ở các chương sau của báo cáo

Trong trung hạn, viễn cảnh phục hồi kinh tế thế giới và Việt Nam được dự báo diễn ra theo chiều hướng tích cực, nhờ đó đem lại một số cơ hội mới cho Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Tuy nhiên, sự bất định của phục hồi kinh tế, sự bất ổn của địa chính trị toàn cầu và khu vực, cùng với nội lực suy sút của nền kinh tế trong nước khiến cho quá trình phục hồi của vùng ĐBSCL tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các xu hướng sau đây cần được cân nhắc trong chiến lược phát triển của Vùng trong năm 2024 cũng như trong trung hạn:

Thứ nhất, lạm phát tác động không nhỏ đến cả hai phía cung và cầu. Về phía cầu, lạm phát gây áp lực lớn lên chi phí sinh hoạt của người dân vùng ĐBSCL. Về phía cung, chi phí sản xuất và nguyên vật liệu đầu vào tăng, đặc biệt với ngành nông nghiệp vốn chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của các địa phương trong Vùng gây ra nhiều tác động tiêu cực cho cả doanh nghiệp và nông dân. Các chính sách vĩ mô nhằm bình ổn giá và kiềm chế lạm phát là cần thiết, tuy nhiên, bên cạnh đó cần những chính sách can thiệp và hỗ trợ trực tiếp một cách linh hoạt và hiệu quả hơn để phù hợp với những tính chất đặc thù của Vùng.

Thứ hai, trong bối cảnh kinh tế bất định và tổng cầu tăng chậm, khả năng và nhu cầu tiếp cận vốn và tín dụng của cả khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình đều tăng trưởng chậm lại. Bằng chứng là mặc dù từ đầu năm đến nay lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước giảm 4 lần liên tiếp, song tăng trưởng tín dụng vẫn rất thấp, đến hết tháng 10/2023 mới chỉ dạt 6,81% so với cuối năm 2022.

Kết quả là tuy giải ngân vốn vay cho ngành nông nghiệp có chút khởi sắc trong giai đoạn 2021-2022, nhưng với những bất ổn tiềm tàng trong trung hạn, đặc biệt là rủi ro nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại có thể khiến nguồn vốn cung cấp cho nhu cầu phát triển kinh tế trong Vùng bị chững lại, đặc biệt đối với ngành nông nghiệp vốn là ngành có tính rủi ro cao. Chính vì thế, ổn định nguồn cung vốn và khả năng tiếp cận tín dụng cho Vùng là việc cần thiết.

Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hậu COVID-19 cũng sẽ dần kết thúc, việc kéo dài các chính chính sách hỗ trợ hiện có, hoặc ban hành các chính sách hỗ trợ thay thế mang tính bền vững, phù hợp với mục tiêu và tiềm năng của Vùng, đặc biệt là các ưu đãi về tín dụng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn cần được ưu tiên.

Thứ ba, tăng trưởng kinh tế thế giới và Việt Nam trong giai đoạn 2021-2022 phụ thuộc rất lớn vào tăng trưởng của hoạt động thương mại. Hoạt động xuất khẩu của ĐBSCL trong năm 2022 tiếp tục khởi sắc, với các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông nghiệp bao gồm thủy sản, gạo và trái cây, vốn là các sản phẩm thế mạnh của vùng. Việc giá cả lương thực, thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp có xu hướng tăng trong thời gian qua, dù ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố lạm phát, cũng tạo ra các cơ hội cho ngành nông nghiệp của vùng ĐBSCL.

Tuy nhiên, trong 3 quý đầu năm 2023, tình trạng suy giảm sâu của hoạt động xuất khẩu đã khiến tốc độ tăng trưởng của cả nước và ĐBSCL chậm lại, và quỹ đạo này sẽ còn tiếp tục kéo dài qua năm 2024 nhưng với mức độ ít nghiêm trọng hơn. Trong bối cảnh nhu cầu quốc tế và nội địa tăng chậm, thậm chí suy giảm, bên cạnh chính sách khuyến khích xuất khẩu, bài toán tối ưu hóa sản xuất, áp dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp sạch và cải thiện chất lượng nông sản để mở rộng xuất khẩu sang các thị trường tiên tiến sẽ là vấn đề nổi bật trong thời gian tới.

Thứ tư, xu hướng dịch chuyển đầu tư khỏi Trung Quốc đang ngày càng trở nên rõ rệt. Các nhà đầu tư nước ngoài đang tăng cường tìm kiếm địa điểm mới ở Đông Nam Á và Ấn Độ, đặc biệt các dự án đầu tư mới (greenfield investment) tăng mạnh tại 2 khu vực này, trong khi sụt giảm ở Trung Quốc. Việt Nam cũng được coi là một trong những điểm đến giàu tiềm năng của các nhà đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, cho đến nay, ngoài các dự án năng lượng thì toàn vùng ĐBSCL, trừ Long An, dường như nằm ngoài danh sách ưu tiên của các nhà đầu tư nước ngoài. Mặc dù công nghiệp vẫn chưa phải ngành chủ đạo của Vùng, tuy nhiên, việc phát triển công nghiệp cũng rất quan trọng, đóng vai trò đa dạng hóa nền kinh tế, giảm thiểu các rủi ro do sự phụ thuộc vào nông nghiệp, giúp tạo nguồn thu ngân sách, và thúc đẩy phát triển kinh tế hiệu quả hơn.

Riêng việc cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư không đủ để biến ĐBSCL thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư. Điều quan trọng là số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng, chất lượng hệ thống và chi phí logistics tại ĐBSCL, khả năng kết nối xuyên vùng, liên vùng (nhất là với TP.HCM và Đông Nam Bộ) và với thị trường quốc tế.

Thứ năm, phát triển xanh là xu hướng tất yếu của tương lai. Là vùng đồng bằng trù phú nhất cả nước, ĐBSCL cần đi tiên phong trong phát triển nông nghiệp giảm khí thải, bền vững, và dẻo dai trước những biến động về môi trường và khí hậu.

Để thực hiện được mục tiêu này, ĐBSCL cần ưu tiên thúc đẩy sinh kế nông nghiệp phát thải thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu kết hợp với bảo tồn đa dạng sinh học để hỗ trợ hấp thụ carbon, bảo vệ và khôi phục hệ sinh thái tự nhiên, đồng thời hỗ trợ các cộng đồng dễ bị tổn thương thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu.

Cuối cùng, xuất phát từ lợi thế về năng lượng tái tạo đã phân tích trong Báo cáo Kinh tế Thường niên ĐBSCL 2022, đồng thời phù hợp với định hướng của Quy hoạch phát triển điện lực 8 (PDP8), ĐBSCL nên khuyến khích phát triển quang điện nông nghiệp (APV). Đây là mô hình kết hợp sản xuất nông nghiệp với năng lượng mặt trời trên cùng một thửa đất, nhờ đó có thể khai thác năng lượng mặt trời mà không ảnh hưởng nhiều đến sản xuất nông nghiệp, do vậy mang lại lợi ích đáng kể cho các hộ nông dân.

(Còn tiếp)

Đánh giá của bạn:

Mời các bạn tham gia vào group Diễn đàn Doanh nghiệp để thảo luận và cập nhật tin tức.

Bạn đang đọc bài viết Các nút thắt thể chế, quản trị và liên kết vùng: 5 xu hướng chiến lược phát triển vùng ĐBSCL tại chuyên mục VCCI của Tạp chí Diễn đàn doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác: email toasoan@dddn.com.vn, hotline: 0985698786,
Bình luận
Bạn còn /500 ký tự
Xếp theo: Thời gian | Số người thích
SELECT id,type,category_id,title,description,alias,image,related_layout,publish_day FROM cms_post WHERE `status` = 1 AND publish_day <= 1714250413 AND in_feed = 1 AND top_home <> 1 AND status = 1 AND publish_day <= 1714250413 ORDER BY publish_day DESC, id DESC LIMIT 0,11
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10