Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi hướng tới tháo gỡ vướng mắc pháp lý, tăng quyền xử lý tài sản bảo đảm và cải thiện cơ chế phối hợp để xử lý nợ xấu hiệu quả hơn.
Chính phủ đang khẩn trương xây dựng dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi, trình Quốc hội trong kỳ họp tháng 5/2025 để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, giúp việc xử lý nợ xấu thuận lợi hơn. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên Diễn đàn Doanh nghiệp đã có cuộc trao đổi với LS. Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch công ty Luật SBLAW.
- Theo ông, điểm nghẽn pháp lý lớn nhất hiện nay đang cản trở quá trình xử lý nợ xấu là gì và dự thảo Luật sửa đổi lần này sẽ tháo gỡ được bao nhiêu phần trong số đó?
Liên quan đến vấn đề nợ xấu, một trong những điểm nghẽn pháp lý lớn nhất hiện nay trong việc xử lý là thiếu sự đồng bộ và rõ ràng trong các quy định pháp luật liên quan đến xử lý tài sản đảm bảo, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản và xử lý các khoản vay của các tổ chức tín dụng.
Cụ thể, các quy định liên quan đến quyền thu hồi tài sản, quyền yêu cầu phát mại tài sản đảm bảo và việc thực thi các bản án của tòa án còn khó khăn, khiến cho việc xử lý nợ xấu gặp nhiều trở ngại.
Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng và các bên liên quan còn thiếu cơ chế minh bạch và đủ mạnh để kiểm soát và giải quyết nợ xấu một cách hiệu quả.
Các thủ tục pháp lý kéo dài và đôi khi không đủ ràng buộc, tạo ra tình huống nợ xấu không được giải quyết triệt để, gây ảnh hưởng đến sự ổn định của toàn bộ hệ thống tài chính.
Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi lần này đã đưa ra một số giải pháp quan trọng nhằm tháo gỡ các vấn đề pháp lý. Cụ thể:
Thứ nhất, về quy trình xử lý tài sản đảm bảo: Dự thảo Luật đã cải tiến quy định về xử lý tài sản đảm bảo, giúp tăng cường quyền hạn của tổ chức tín dụng trong việc thu hồi tài sản đảm bảo và tiến hành bán đấu giá, qua đó đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu.
Thứ hai, về quy định về tổ chức xử lý nợ xấu: Dự thảo đã bổ sung cơ chế và tổ chức chuyên trách để xử lý nợ xấu một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn. Điều này sẽ giúp tạo ra một hệ thống chuyên nghiệp và có thẩm quyền trong việc xử lý các khoản vay không khả thi.
Thứ ba, về cải thiện cơ chế pháp lý: Các điều khoản trong dự thảo cũng nâng cao tính minh bạch và rõ ràng trong việc thực thi các quyết định của tòa án liên quan đến nợ xấu. Ngoài ra, việc sửa đổi các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tín dụng sẽ giúp cải thiện khả năng đàm phán và giải quyết nợ xấu.
Nhìn chung, Dự thảo Luật sửa đổi lần này đã tháo gỡ được nhiều vướng mắc, tạo nền tảng pháp lý vững chắc hơn trong việc xử lý nợ xấu trong tương lai. Tuy nhiên, việc triển là thực tế cần sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan chức năng, các tổ chức tín dụng và các bên liên quan.
- Trong quá trình xử lý nợ xấu, vấn đề tranh chấp tài sản bảo đảm giữa nhiều bên thường xuyên phát sinh. Dự thảo luật có cơ chế nào để giảm thiểu rủi ro pháp lý cho các tổ chức tín dụng khi thu giữ, xử lý tài sản không, thưa ông?
Việc tranh chấp tài sản đảm bảo giữa nhiều bên thường phát sinh do: Việc đăng ký giao dịch tài sản bảo đảm chưa đầy đủ, không đúng trình tự pháp luật dẫn đến xung đột về thứ tự ưu tiên thanh toán; Bên thế chấp mang tài sản đã thế chấp đi thế chấp tại nhiều nơi; Tranh chấp liên quan đến quyền lợi của bên thứ ba (ví dụ như người thuê nhà, người đồng sở hữu tài sản…) không được bảo vệ thỏa đáng hoặc chưa được pháp luật điều chỉnh rõ ràng; và Việc thi hành quyền thu giữ tài sản bảo đảm không được pháp luật hiện hành quy định cụ thể, khiến tổ chức tín dụng thường bị lúng túng, dễ rơi vào tranh chấp.
Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi đã có một số bước tiến đáng ghi nhận nhằm giảm thiểu rủi ro pháp lý khi tổ chức tín dụng thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm, cụ thể như:
Một là, bổ sung quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm một cách rõ ràng hơn. Dự thảo lần này đã quy định cụ thể hơn quyền thu giữ tài sản của tổ chức tín dụng trong trường hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Quan trọng hơn, dự thảo luật đưa ra nguyên tắc thu giữ tài sản không cần thông qua tòa án, nếu các bên đã có thỏa thuận từ trước trong hợp đồng bảo đảm. Điều này giúp hạn chế tình trạng kéo dài thời gian xử lý do phải khởi kiện ra tòa.
Hai là, tăng cường giá trị pháp lý của hợp đồng thế chấp và đăng ký giao dịch bảo đảm. Dự thảo nhấn mạnh việc đăng ký giao dịch bảo đảm là điều kiện tiên quyết để được công nhận quyền ưu tiên thanh toán, đồng thời đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất, công khai, nhằm hạn chế tình trạng tranh chấp tài sản do thông tin không rõ ràng.
Ba là, tách bạch quyền lợi của các bên và đưa ra nguyên tắc xử lý ưu tiên rõ ràng. Dự thảo luật đưa ra thứ tự ưu tiên cụ thể khi xử lý tài sản bảo đảm có nhiều bên liên quan, từ đó làm rõ cơ chế phân chia giá trị tài sản, hạn chế tối đa khả năng phát sinh tranh chấp pháp lý.
Bốn là, đề xuất cơ chế phối hợp cưỡng chế giữa tổ chức tín dụng và cơ quan thi hành án. Một số ý kiến trong quá trình xây dựng dự thảo cũng đề xuất tăng cường thẩm quyền cho tổ chức tín dụng trong việc phối hợp với cơ quan công an, thi hành án dân sự để thu giữ tài sản trong những trường hợp có dấu hiệu chống đối.
Tóm lại, mặc dù vẫn còn một số điểm cần được hướng dẫn rõ ràng trong quá trình thực thi, nhưng Dự thảo Luật sửa đổi lần này đã đặt nền móng pháp lý tương đối vững chắc để tổ chức tín dụng có thể tự tin hơn trong việc thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm, từ đó giảm thiểu đáng kể rủi ro pháp lý và chi phí phát sinh do tranh chấp.
- Ông đánh giá thế nào về sự phối hợp giữa các cơ quan như tòa án, thi hành án, công an và tổ chức tín dụng trong thực tế xử lý nợ xấu và liệu luật sửa đổi có thể giải quyết các vướng mắc trong thực thi liên quan đến quy định pháp lý chuyên ngành này không?
Trên thực tế, sự phối hợp giữa các cơ quan này trong xử lý nợ xấu đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc và bất cập.
Tòa án: Đóng vai trò then chốt trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng, xác định nghĩa vụ trả nợ của bên vay thông qua các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Tòa án cũng có vai trò trong việc ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản cho việc thi hành án sau này.
Cơ quan Thi hành án dân sự: Là cơ quan trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến thu hồi nợ. Sự phối hợp giữa THADS và TCTD thể hiện qua việc cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, kê biên, xử lý tài sản bảo đảm.
Công an: Giữ vai trò quan trọng trong việc điều tra, xác minh các vụ việc có dấu hiệu tội phạm liên quan đến hoạt động tín dụng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cố ý không trả nợ... Công an cũng hỗ trợ đảm bảo an ninh trật tự trong quá trình THADS thực hiện cưỡng chế thi hành án. Trong một số trường hợp, cơ quan điều tra có thể thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự để trả lại cho TCTD.
Tổ chức tín dụng: Có vai trò chủ động trong việc khởi kiện ra Tòa án, yêu cầu thi hành án. Tổ chức tín dụng cung cấp hồ sơ, tài liệu, thông tin cần thiết cho Tòa án, THADS và Công an trong quá trình giải quyết vụ việc. Đồng thời, tổ chức tín dụng cũng có trách nhiệm phối hợp trong việc định giá, bán đấu giá tài sản bảo đảm.
Nhưng trong thực tiễn xảy ra những bất cập như:
(i) Quy định pháp luật chưa đồng bộ, chồng chéo: Một số quy định pháp luật liên quan đến xử lý nợ xấu, thi hành án vẫn còn những điểm chưa thống nhất, gây khó khăn trong áp dụng thực tế.
(ii) Năng lực và nguồn lực của các cơ quan còn hạn chế: Áp lực công việc lớn, trong khi nguồn nhân lực và vật lực của các cơ quan (đặc biệt là THADS) đôi khi chưa đáp ứng được yêu cầu.
(iii) Sự phối hợp đôi khi còn mang tính hình thức: Việc trao đổi thông tin, phối hợp xử lý vụ việc cụ thể đôi khi chưa thực sự hiệu quả, thiếu sự chủ động và quyết liệt từ một số đơn vị.
Đối với khả năng điều chỉnh các xung đột liên ngành của luật sửa đổi hiện nay, Quốc hội đã cho ý kiến về Dự thảo Luật sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng (dự kiến thông qua 2025) có một số điểm đáng chú ý như:
Thứ nhất, công nhận rộng hơn quyền thu giữ tài sản bảo đảm (dự kiến quy định vào luật thay vì chỉ ở Nghị quyết).
Thứ hai, cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ hơn: Đề xuất bổ sung nghĩa vụ phối hợp của UBND, công an, thi hành án vào luật (thay vì chỉ hướng dẫn bằng thông tư liên ngành trước đây).
Thứ ba, rút ngắn thủ tục tố tụng: Đề xuất cơ chế tố tụng rút gọn cho tranh chấp về tài sản bảo đảm nếu có hợp đồng công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm rõ ràng.
Có thể nói Luật sửa đổi có tiềm năng điều chỉnh tốt hơn các xung đột liên ngành, nếu đồng bộ hóa giữa luật nội dung và luật tố tụng, đồng thời bổ sung chế tài rõ ràng với cơ quan không phối hợp. Tuy nhiên, hiệu quả thực tế còn phụ thuộc vào nhận thức và sự vào cuộc của chính quyền địa phương.
- Dưới góc nhìn pháp lý, ông có kiến nghị gì để việc xử lý nợ xấu được thuận lợi hơn?
Từ góc nhìn pháp lý, kinh nghiệm thực tiễn cho thấy vướng mắc lớn nhất trong xử lý nợ xấu hiện nay nằm ở việc thực thi quyền của chủ nợ, đặc biệt là các quyền liên quan đến tài sản bảo đảm, và sự kéo dài, phức tạp của các thủ tục pháp lý như tố tụng và thi hành án.
Nghị quyết 42/2017/QH14 trước đây đã tạo ra một cơ chế đặc thù để tháo gỡ, nhưng việc hết hiệu lực của Nghị quyết này đã để lại một khoảng trống pháp lý nhất định. Do đó, dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi lần này cần phải là nơi kế thừa, phát triển và luật hóa các cơ chế xử lý nợ xấu hiệu quả một cách thường xuyên, ổn định và bền vững.
Để việc xử lý nợ xấu được thuận lợi hơn thông qua Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi, thứ nhất, cần quy định rõ ràng và mạnh mẽ hơn về quyền xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng ngay trong Luật.
Dự thảo Luật nên có các điều khoản cụ thể, chi tiết về quyền của TCTD trong việc thu giữ TSBĐ khi bên vay vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, tạo cơ chế pháp lý rõ ràng để TCTD có thể thực hiện quyền này mà không bị cản trở bởi các tranh chấp không đáng có hoặc sự thiếu hợp tác từ bên vay/bên thứ ba.
Cần làm rõ hơn quy trình, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên, đặc biệt là sự phối hợp của cơ quan công an, chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ TCTD thực hiện quyền hợp pháp này.
Bên cạnh đó, Luật cần có quy định mang tính định hướng hoặc kết nối với các Luật khác (như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Đăng ký TSBĐ) để đơn giản hóa tối đa các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian đăng ký biến động hoặc sang tên khi TSBĐ được xử lý thông qua bán đấu giá hoặc bán nợ.
Thứ hai, dự thảo Luật cần tạo cơ sở pháp lý để đẩy nhanh tiến độ giải quyết tranh chấp và thi hành án liên quan đến nợ xấu. Mặc dù các quy định chi tiết thuộc về các luật chuyên ngành khác như Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Thi hành án Dân sự, nhưng Luật Các tổ chức tín dụng có thể lồng ghép các quy định mang tính nguyên tắc hoặc yêu cầu sự phối hợp hiệu quả từ các cơ quan tố tụng và thi hành án.
Ví dụ, Luật có thể nhấn mạnh yêu cầu ưu tiên giải quyết các vụ án liên quan đến nợ xấu của TCTD trong một khoảng thời gian hợp lý, hoặc quy định về trách nhiệm phối hợp của cơ quan thi hành án trong việc xác minh, xử lý TSBĐ theo yêu cầu của TCTD. Việc này sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các bản án, quyết định liên quan đến thu hồi nợ trên thực tế.
Thứ ba, cần hoàn thiện khung pháp lý cho việc mua bán nợ xấu, bao gồm cả nợ có TSBĐ phức tạp, ngay trong Luật. Dự thảo Luật nên có các quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục để TCTD bán nợ xấu (kể cả bán cho VAMC hay các tổ chức mua bán nợ khác), làm rõ quyền và nghĩa vụ của bên mua nợ, đặc biệt là quyền của bên mua nợ trong việc kế thừa và thực hiện các quyền của TCTD đối với khoản nợ và TSBĐ tương ứng. Việc này sẽ tạo điều kiện cho TCTD đa dạng hóa kênh xử lý nợ, giảm áp lực lên bảng cân đối kế toán và thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán nợ.
Thứ tư, dự thảo Luật cần đặc biệt chú trọng quy định về cơ chế phối hợp liên ngành trong xử lý nợ xấu. Đây là điểm yếu cố hữu khiến việc xử lý nợ gặp nhiều khó khăn. Luật nên có các điều khoản yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên và có trách nhiệm giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp (các cơ quan thi hành án), Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công an, Tòa án nhân dân và các bộ, ngành liên quan khác trong toàn bộ quy trình xử lý nợ, từ xác minh tài sản, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, xử lý TSBĐ đến thi hành án. Một cơ chế phối hợp hiệu quả, được quy định rõ ràng trong Luật, sẽ giúp gỡ bỏ các rào cản hành chính và pháp lý liên thông.
Thứ năm, dự thảo Luật cũng nên xem xét các quy định cho phép TCTD tiếp cận các nguồn thông tin cần thiết (trong khuôn khổ pháp luật và bảo mật) để phục vụ công tác đánh giá, phân loại nợ và xác minh tài sản của bên nợ/bên bảo đảm, giúp việc xử lý nợ được chính xác và hiệu quả hơn ngay từ đầu.
- Trân trọng cảm ơn Ông!