Bên cạnh kế thừa những giải pháp tại Nghị quyết 09-NQ/TW, Nghị quyết số 41-NQ/TW đã bổ sung nhiệm vụ giải pháp mới đáp ứng quan điểm, mục tiêu và phù hợp với thời kỳ mới.
>>>ĐANG DIỄN RA: Hội nghị quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW
Ngày 10/5, Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương, Đảng đoàn Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức Hội nghị quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW, ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới.
Hội nghị được triển khai trên toàn quốc với điểm cầu Trung ương tại Hội trường A2, số 9 Nguyễn Cảnh Chân, Ba Đình, Hà Nội; Điểm cầu các ban, bộ, ngành, cơ quan trực thuộc Trung ương; Điểm cầu tại các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; Điểm cầu Đảng đoàn VCCI (Địa điểm 1: Tầng 7, tòa nhà VCCI, số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội. Địa điểm 2: Hội trường Chi nhánh VCCI khu vực TP Hồ Chí Minh, số 171 Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh). Tổng số các điểm cầu là 4.322, trong đó điểm cầu Trung ương 1, điểm cầu cấp tỉnh 75, điểm cầu cấp huyện 735, điểm cầu cấp xã 3.150 với tổng số đại biểu là 206.926 đảng viên.
Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương báo cáo những nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về “xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới”. Tạp chí DĐDN trân trọng đăng toàn văn phát biểu của Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương:
Trong suốt thời kỳ đổi mới, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và đóng góp tích cực vào cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với mục tiêu xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần dân tộc, giác ngộ chính trị, văn hóa kinh doanh, có trách nhiệm xã hội cao, có đủ năng lực, trình độ để lãnh đạo, quản lý các doanh nghiệp, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Sau hơn 10 năm triển khai, Ban Chỉ đạo Trung ương xây dựng Đề án dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đã chỉ đạo Tổ Biên tập và Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – cơ quan đầu mối giúp việc Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án xây dựng và hoàn thiện Dự thảo Báo cáo tổng hợp của Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, trình Bộ Chính trị thông qua và thống nhất ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 với nhiều nội dung mới về quan điểm, định hướng và giải pháp phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới, được coi là kim chỉ nam để đội ngũ doanh nhân Việt Nam tự tin, vững bước, chung lòng chung sức xây dựng đất nước hùng cường, phát triển trong thời gian tới.
Việc tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết 41 ngày hôm nay thể hiện sự quan tâm của lãnh đạo Đảng và Nhà nước tới công tác xây dựng một đội ngũ doanh nhân Việt Nam lớn mạnh, đủ sức thực hiện sứ mệnh, nhiệm vụ góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Trong bối cảnh phát triển mới trong thời gian tới, Nghị quyết 41 là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng cho sự ra đời của các cơ chế, chính sách mới tạo động lực để phát triển và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Về những nội dung cơ bản của Nghị quyết Nghị quyết số 41-NQ/TW, trước tiên, về kết cấu: Nghị quyết được kết cấu gồm 4 phần có liên quan chặt chẽ với nhau: Phần I. Tình hình thực hiện Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị Khóa XI; Phần II. Quan điểm, mục tiêu; Phần III. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu; Phần IV. Tổ chức thực hiện.
Phần I:Tình hình thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW
Trong phần này, Bộ Chính trị đã đánh giá các kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Kết quả cho thấy, sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và xã hội được nâng cao; việc thể chế hoá quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân được đẩy mạnh; môi trường sản xuất, kinh doanh được cải thiện, ngày càng bình đẳng, thuận lợi.
Giai đoạn 2012-2022 đã có 72 dự án Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết và các văn bản pháp luật khác về doanh nghiệp doanh nhân được triển khai xây dựng và ban hành như: Luật Doanh nghiệp sửa đổi, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN, Luật thuế GTGT, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu sửa đổi, Luật hỗ trợ DNNVV, Luật Đất đai sửa đổi….
Dấu mốc quan trọng nhất liên quan đến vấn đề doanh nghiệp doanh nhân và quyền kinh doanh là việc Hiến pháp được Quốc hội thông qua năm 2013 đã quy định: Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Nhà nước khuyến khích tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân tổ chức khác đầu tư sản xuất kinh doanh phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư sản xuất kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hoá.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hiến pháp của nước ta, các quy định về quyền kinh doanh, doanh nghiệp, doanh nhân được hiến định đầy đủ toàn diện. Bên cạnh đó, tại các địa phương đã có 51/63 Tỉnh uỷ, Thành uỷ thể chế hoá cụ thể hoá Nghị quyết 09 bằng việc xây dựng và ban hành riêng Nghị quyết Chương trình hành động hoặc Kế hoạch triển khai, 3/63 Tỉnh uỷ, Thành uỷ cụ thể hoá Nghị quyết 09 bằng việc ban hành Chỉ thị, Công văn chỉ đạo.
Vai trò của doanh nhân và tổ chức đại diện cho đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp được củng cố, phát huy. Giai đoạn 2015-2020 Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tổ chức nghiên cứu, góp ý gần 700 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, trung bình mỗi năm gần 150 dự thảo, tham gia 214 ban soạn thảo, tổ biên tập, 390 hội đồng thẩm định thẩm tra các dự án dự thảo văn bản, kiểm tra văn bản. VCCI đã tổ chức 2.030 Hội nghị, Hội thảo, Toạ đàm lấy ý kiến các chuyên gia, doanh nghiệp xây dựng góp ý pháp luật chính sách với 324.500 lượt người tham dự.
Đội ngũ doanh nhân Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, kế thừa truyền thống yêu nước, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tinh thần cống hiến cho dân tộc. Ngày càng khẳng định vai trò, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một số doanh nghiệp phát triển đạt tầm khu vực và thế giới, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tính đến tháng 3/2024, cả nước có khoảng 920.000 doanh nghiệp đang hoạt động, nền kinh tế còn có sự tham gia của khoảng 32.000 hợp tác xã, và 5,2 triệu cơ sở kinh tế cá thể phi nông nghiệp, đội ngũ doanh nhân đã lên đến hàng triệu người.
Tính đến hết năm 2022, Việt Nam đã có 172 doanh nghiệp và 325 sản phẩm là thương hiệu quốc gia. Trong đó, có một số thương hiệu quốc gia đã gây được tiếng vang và khẳng định giá trị thương hiệu trên thị trường khu vực và quốc tế.
Bên cạnh đó, trên tinh thần thẳng thắn, khách quan, nhìn thẳng vào sự thật, Nghị quyết số 41-NQ/TW cũng chỉ ra những hạn chế trong việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân trong thời gian qua, đó là: sự phát triển đội ngũ doanh nhân chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới; phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ, sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, năng lực kinh doanh, kỹ năng quản trị còn hạn chế; số doanh nghiệp quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt các chuỗi cung ứng còn ít; tính liên kết, hợp tác, khả năng tận dụng cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn yếu.
Còn một bộ phận doanh nhân đạo đức, văn hoá kinh doanh, ý thức chấp hành pháp luật, trách nhiệm xã hội, tinh thần dân tộc chưa cao, còn vi phạm pháp luật, cấu kết với cán bộ, công chức viên chức suy thoái, chạy theo lợi ích cá nhân, gây thiệt hại cho Nhà nước, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân.
Một số cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp chậm được triển khai, hiệu quả chưa cao. Cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh chưa đáp ứng yêu cầu. Chưa quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cho doanh nhân.
Trong Nghị quyết 41-NQ/TW, Bộ Chính trị cũng đã chỉ ra những 3 nhóm nguyên nhân chủ quan chủ yếu của những hạn chế, yếu kém như, nhận thức, trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền chưa đầy đủ, sâu sắc.
Hai, công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện có lúc, có nơi còn hình thức.
Ba, ông tác quản lý nhà nước, sự phối hợp giữa các cơ quan trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật chưa chặt chẽ, thường xuyên.
Trên cơ sở đánh giá tình hình kết quả hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị, kết quả dự báo và phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, làm rõ các yêu cầu đặt ra đối với phát triển doanh nhân Việt Nam trong thời gian tới, tại Nghị quyết 41, Bộ Chính trị đã đề ra các quan điểm, mục tiêu, tầm nhìn, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu phát triển doanh nhân Việt Nam trong tình hình mới, cụ thể như sau:
Phần II: Quan điểm, mục tiêu
Về quan điểm, trên cơ sở đánh giá các kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW; phân tích bối cảnh mới trong nước, quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với công tác xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân; bên cạnh việc kế thừa những nội dung vẫn còn nguyên giá trị của Nghị quyết số 09-NQ/TW, Bộ Chính trị đã đưa ra nhiều nội dung mới tại Nghị quyết số 41-NQ/TW với 3 nhóm quan điểm chỉ đạo, gồm:
(i) Nhóm quan điểm thứ nhất nhấn mạnh Đội ngũ doanh nhân có vị trí, vai trò quan trọng, là một trong những lực lượng nòng cốt góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tăng cường liên kết, hợp tác trong đội ngũ doanh nhân, giữa doanh nhân với công nhân, nông dân, trí thức cùng thực hiện mục tiêu phát triển đất nước.
Trong khi Nghị quyết số 09-NQ/TW chỉ khẳng định “Đội ngũ doanh nhân là lực lượng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đến Nghị quyết số 41-NQ/TW, Đảng ta đã bổ sung thêm vai trò của đội ngũ doanh nhân là “một trong những lực lượng nòng cốt”, đồng thời doanh nhân không chỉ góp phần “đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập” giống Nghị quyết số 09-NQ/TW, mà còn có “bảo đảm quốc phòng, an ninh”.
“Như vậy, vai trò và vị trí của đội ngũ doanh nhân đã được nâng tầm và mở rộng hơn nhiều so với Nghị quyết số 09-NQ/TW. Điều này cho thấy sự thay đổi nhận thức của Đảng về vai trò và vị trí của đội ngũ doanh nhân, nhất là trong thời kỳ mới, thời kỳ thực hiện các mục tiêu phát triển của đất nước”, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh.
(ii) Nhóm quan điểm thứ hai đặt ra yêu cầu và đích đến về công tác xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân: Xây dựng, tôn vinh, cổ vũ đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật, góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Quan điểm này cũng kế thừa Nghị quyết số 09-NQ/TW, nhưng bổ sung thêm các nội dung cần có của đội ngũ doanh nhân trong thời kỳ mới, gắn với các chủ trương mới nêu văn kiện đại hội XIII của Đảng, đó là: ý chí tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật.
(iii) Nhóm quan điểm thứ ba chỉ ra nhiệm vụ phải làm để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của đội ngũ doanh nhân Việt Nam, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, an toàn, bình đẳng để doanh nghiệp phát triển và cống hiến là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và đội ngũ doanh nhân gắn với quá trình hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm này nhấn mạnh việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, gắn việc phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân với tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, an toàn, bình đẳng để doanh nghiệp phát triển và cống hiến. Đây là điểm mới quan trọng trong Nghị quyết, thể hiện rõ quan điểm về sự phát triển và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân phải gắn với việc tạo môi trường kinh doanh, không chỉ thuận lợi, bình đẳng (điều mà đã được nhắc đến trong các nghị quyết trước đây) mà còn phải “an toàn” để để doanh nghiệp phát triển và cống hiến. Việc phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân không chỉ gắn với quá trình hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (giống như yêu cầu nêu tại Nghị quyết số 09-NQ/TW) mà còn gắn với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Vềmục tiêu, khác với Nghị quyết số 09-NQ/TW chỉ đưa ra mục tiêu tổng quát đến năm 2020, gắn với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước, thì trong Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngoài mục tiêu tổng quát còn có mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, gắn với các mục tiêu phát triển đất nước mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Cụ thể:
- Mục tiêu tổng quát: Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý, có tầm nhìn, trí tuệ, đạo đức, tinh thần kinh doanh, làm giàu chính đáng, năng động, sáng tạo, năng lực quản trị tiên tiến, tuân thủ pháp luật, có đạo đức, văn hoá kinh doanh mang bản sắc dân tộc; có trách nhiệm xã hội, ý thức bảo vệ môi trường, đóng góp xứng đáng cho các mục tiêu phát triển đất nước.
Mục tiêu tổng quát đã cụ thể hóa hơn so với Nghị quyết số 09-NQ/TW, không chỉ đưa ra mục tiêu lớn mạnh, mà cụ thể là lớn mạnh về số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý. Trong đó, các tiêu chí đánh giá sự lớn mạnh về chất lượng của đội ngũ doanh nhân đã được quan tâm nhiều hơn: có tầm nhìn, trí tuệ, đạo đức, tinh thần kinh doanh, làm giàu chính đáng, năng động, sáng tạo, năng lực quản trị tiên tiến, tuân thủ pháp luật, có đạo đức, văn hoá kinh doanh mang bản sắc dân tộc; có trách nhiệm xã hội, ý thức bảo vệ môi trường.
- Mục tiêu đến năm 2030: Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam có quy mô, năng lực và trình độ đáp ứng mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phấn đấu ngày càng có nhiều doanh nghiệp đạt tầm khu vực, một số doanh nghiệp đạt tầm thế giới; một số doanh nghiệp lớn có vai trò dẫn dắt trong các ngành, lĩnh vực then chốt; một số doanh nghiệp có vị thế, vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp, có năng lực cạnh tranh quốc tế trong các ngành công nghiệp nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn.
Mục tiêu phát triển của đội ngũ doanh nhân đến năm 2030 được gắn với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Bên cạnh phát triển đông đảo về số lượng, để khắc phục các hạn chế hiện nay về thiếu vắng các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vai trò dẫn dắt, Nghị quyết đưa ra mục tiêu đến năm 2030 ngày càng có nhiều doanh nghiệp đạt tầm khu vực, một số doanh nghiệp đạt tầm thế giới; một số doanh nghiệp lớn có vai trò dẫn dắt trong các ngành, lĩnh vực then chốt; một số doanh nghiệp có vị thế, vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp, có năng lực cạnh tranh quốc tế trong các ngành công nghiệp nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn.
- Tầm nhìn đến năm 2045: Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam có quy mô, năng lực và trình độ đáp ứng mục tiêu quốc gia phát triển, thu nhập cao, có vị thế, uy tín khu vực và quốc tế; một bộ phận doanh nghiệp có thương hiệu thế giới, dẫn dắt một số chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.
Mục tiêu phát triển của đội ngũ doanh nhân (tầm nhìn đến năm 2045) là phải có quy mô, năng lực và trình độ đáp ứng mục tiêu quốc gia phát triển, thu nhập cao, có vị thế và uy tín quốc tế. Tức là đội ngũ doanh nhân Việt Nam lúc đó phải lãnh đạo lực lượng doanh nghiệp đủ mạnh để tương xứng với một quốc gia phát triển, xây dựng được vị thế và uy tín quốc tế cho doanh nhân, doanh nghiệp Việt. Bên cạnh đó, một bộ phận doanh nghiệp có thương hiệu thế giới, dẫn dắt một số chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.
>>>Đưa Nghị quyết số 41-NQ/TW vào cuộc sống
Phần III của Nghị quyết số 41-NQ/TW đưa ra 7 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu, bao gồm:
Một là, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đội ngũ doanh nhân trong thực hiện mục tiêu phát triển đất nước.
Hai là, hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, an toàn, bình đẳng cho doanh nhân, doanh nghiệp phát triển và cống hiến.
Ba là, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh ngang tầm mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Bốn là, xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh, phát huy tinh thần dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Năm là, tăng cường đoàn kết, hợp tác, liên kết giữa doanh nhân với công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sáu là, phát huy vai trò của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổ chức đại diện đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp.
Bẩy là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân
Về nội dung của các nhiệm vụ và giải pháp, ngoài việc kế thừa các nhiệm vụ giải pháp vẫn còn nguyên giá trị của Nghị quyết 09-NQ/TW, Nghị quyết số 41-NQ/TW đã sắp xếp, bổ sung một số nhiệm vụ giải pháp mới; nhiều nội dung trong các nhiệm vụ giải pháp được đổi mới, hoàn thiện để đáp ứng quan điểm, mục tiêu và phù hợp với bối cảnh mới.
Cụ thể là: Thứ nhất, về nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đội ngũ doanh nhân trong thực hiện mục tiêu phát triển đất nước
Nghị quyết số 41-NQ/TW tiếp tục đề cao nhiệm vụ đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên, Nhân dân, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và xã hội về vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ doanh nhân trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước.
Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng chú trọng hơn vào tập trung tuyên truyền, vận động đội ngũ doanh nhân nhận thức sâu sắc, đầy đủ về vai trò, sứ mệnh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, nêu cao tinh thần yêu nước, thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh.
Ngoài ra, Nghị quyết cũng bổ sung việc phát huy vai trò của các cơ quan báo chí trong việc thông tin, tuyên truyền, cổ vũ đội ngũ doanh nhân Việt Nam. Khuyến khích đội ngũ doanh nhân phấn đấu, xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh; học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nêu cao trách nhiệm xã hội, tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước. Chú trọng tôn vinh, biểu dương các tấm gương doanh nhân, doanh nghiệp tiêu biểu.
Thứ hai, về hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, an toàn, bình đẳng cho doanh nhân, doanh nghiệp phát triển và cống hiến
Bên cạnh việc khẩn trương rà soát, thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đồng bộ đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp, Nghị quyết số 41-NQ/TW đã nhấn mạnh việc tạo môi trường kinh doanh an toàn để doanh nhân, doanh nghiệp phát triển và cống hiến: tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh, bảo hộ quyền tài sản hợp pháp, khởi nghiệp, bổ sung chế tài kinh tế phù hợp để xử lý vi phạm, không hình sự hoá quan hệ kinh tế... bảo đảm khuôn khổ pháp luật ổn định, đồng bộ, thống nhất, minh bạch, bình đẳng, nhất là trong tiếp cận nguồn lực về đất đai, tài chính, công nghệ; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, đối tượng phục vụ; kiểm soát, xoá bỏ đặc quyền, độc quyền trong sản xuất, kinh doanh.
Để mở rộng không gian phát triển cho doanh nghiệp, doanh nhân trong bối cảnh mới, Nghị quyết số 41-NQ/TW nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện thể chế gắn với 2 quá trình chuyển đổi quan trọng của đất nước trong thời gian tới, đó là chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, theo đó Nghị quyết nêu rõ yêu cầu: quan tâm xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế số, xã hội số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, các mô hình, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mới để mở rộng không gian phát triển cho doanh nhân, doanh nghiệp… Nghiên cứu triển khai cơ chế thử nghiệm có kiểm soát để tạo điều kiện cho doanh nhân, doanh nghiệp có bước đột phá trong một số lĩnh vực mới, có lợi thế, tiềm năng.
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết cũng đề ra nhiệm vụ tăng cường quản lý nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính. Từng bước mở rộng, hoàn thiện cơ chế đối thoại, tham vấn của các cơ quan dân cử, cơ quan quản lý nhà nước với đội ngũ doanh nhân trong quá trình xây dựng, hoạch định, tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, pháp luật, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát, bảo đảm công khai, minh bạch trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước, công chức, viên chức với doanh nhân, doanh nghiệp; có cơ chế ngăn ngừa, xử lý nghiêm hành vi nhũng nhiễu, cản trở, tham nhũng, tiêu cực đối với doanh nhân, doanh nghiệp. Đây là điểm khác biệt so với Nghị quyết số 09-NQ/TW khi yêu cầu phải có cơ chế rõ ràng để ngăn ngừa và xử lý.
Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến doanh nhân, doanh nghiệp.
Thứ ba, về phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh ngang tầm mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới
Khác với Nghị quyết số 09-NQ/TW khi tách 2 nhiệm vụ phát triển đội ngũ doanh nhân về số lượng và chất lượng, Nghị quyết số 41-NQ/TW đã gộp các nhiệm vụ này lại để đưa ra nhiệm vụ, giải pháp toàn diện hơn.
Đầu tiên là đi từ chiến lược, Nghị quyết yêu cầu “ban hành chiến lược phát triển đội ngũ doanh nhân quốc gia, ngành, địa phương gắn với mục tiêu tổng quát, mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 về xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân trong thời kỳ mới”.
Tiếp đó, Nghị quyết đưa ra các nhiệm vụ để phát triển từ các doanh nghiệp lớn đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa: “Có chính sách đột phá để hình thành, phát triển doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu, có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp”. Đây là lần đầu tiên trong các nghị quyết của Đảng sử dụng thuật ngữ “doanh nghiệp dân tộc” để nhấn mạnh các doanh nghiệp do người Việt làm chủ, góp phần nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế. Nghị quyết số 09-NQ/TW chỉ nêu “thúc đẩy hình thành và phát triển doanh nghiệp lớn, có khả năng dẫn dắt, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ, khẳng định vị trí tại thị trường trong nước và thâm nhập có hiệu quả vào thị trường thế giới”.
Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng đưa ra các nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa một cách cụ thể và toàn diện hơn so với Nghị quyết số 09-NQ/TW. Đó là: Có chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mở rộng quy mô, nâng cao sức cạnh tranh, năng lực sản xuất, phát triển mô hình kinh doanh dựa trên nền tảng đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu (Nghị quyết số 09-NQ/TW chỉ nêu: Thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Nghị quyết số 41-NQ/TW cũng đưa ra các nhiệm vụ cụ thể để hỗ trợ cho từng nhóm doanh nghiệp, doanh nhân cần được ưu tiên như: Khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong toàn xã hội, nhất là trong các lĩnh vực mới, trong thế hệ trẻ. Có chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển doanh nhân nữ, doanh nhân trẻ, doanh nhân dân tộc thiểu số, doanh nhân hoạt động ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Quan tâm phát triển kinh tế hợp tác với vai trò nòng cốt của hợp tác xã.
Nghị quyết số 41-NQ/TW còn đề ra nhiệm vụ “Nghiên cứu, ban hành chính sách động viên, tạo điều kiện cho doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tăng cường trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam trong và ngoài nước.”
Về nâng cao năng lực cho đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và hội nhập hiện nay, Nghị quyết số 41-NQ/TW đề ra nhiệm vụ: Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân, khuyến khích doanh nhân ở tất cả các thành phần kinh tế tham gia, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng các vấn đề mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khởi nghiệp, quản trị kinh doanh hiện đại, kiến thức pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn, xu hướng kinh doanh mới… Đồng thời, khuyến khích doanh nhân thành đạt tham gia hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, truyền cảm hứng, chia sẻ kinh nghiệm. Đa dạng hoá các hoạt động hợp tác, liên kết đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước. Triển khai các chương trình hỗ trợ pháp lý, nâng cao năng lực cho doanh nhân, doanh nghiệp tham gia có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Thứ tư, về xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh, phát huy tinh thần dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Nghị quyết yêu cầu phải hoàn thiện và vận động đội ngũ doanh nhân phấn đấu thực hiện chuẩn mực đạo đức, văn hoá kinh doanh, gắn với bản sắc dân tộc và tiếp cận được tinh hoa văn hoá kinh doanh thế giới là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài trong xây dựng đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam. Lấy đạo đức, văn hoá kinh doanh làm cốt lõi, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật; nâng cao vai trò của doanh nhân đóng góp cho ngoại giao kinh tế, đối ngoại nhân dân, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hoá Việt Nam.
Nâng cao ý thức, trách nhiệm của doanh nhân, doanh nghiệp đối với xã hội, nhất là trong cung ứng sản phẩm, dịch vụ bảo đảm chất lượng; giữ gìn uy tín, thương hiệu doanh nghiệp; chú trọng bảo vệ môi trường; lên án, ngăn chặn, kiên quyết xử lý doanh nhân, doanh nghiệp vi phạm đạo đức, văn hoá kinh doanh, vi phạm pháp luật. Đồng thời, khuyến khích doanh nhân, doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội, tham gia tích cực các hoạt động giúp đỡ cho người có hoàn cảnh khó khăn, địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Thứ năm, về tăng cường đoàn kết, hợp tác, liên kết giữa doanh nhân với công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đây là nội dung mới, một mặt cho thấy tầm quan trọng của vấn đề liên kết bên trong đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp, mặt khác khẳng định vai trò, vị trí của đội ngũ doanh nhân trong các giai tầng xã hội hiện nay, nhất là trong việc liên kết với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng để phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nghị quyết yêu cầu phải thúc đẩy hợp tác, liên kết, phối hợp hoạt động trong đội ngũ doanh nhân; giữa doanh nhân với công nhân, nông dân, trí thức thông qua các hình thức đa dạng, phù hợp, gắn với hoạt động sản xuất, kinh doanh, trách nhiệm xã hội. Để thúc đẩy các mỗi liên kết hợp tác giữa doanh nhân với công nhân, nông dân, trí thức, cần phát huy vai trò của các tổ chức đại diện của các giai tầng này trong xã hội.
Xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ, thực chất giữa doanh nghiệp và người lao động, đẩy mạnh ký kết thoả ước lao động tập thể, giải quyết hài hoà lợi ích doanh nghiệp và người lao động; định kỳ tổ chức đối thoại, hội nghị người lao động trong doanh nghiệp. Quan tâm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động, nhất là về tiêu chuẩn, an toàn lao động, an sinh, phúc lợi xã hội, dân chủ ở cơ sở, hạn chế tối đa tranh chấp lao động. Tạo điều kiện cho tổ chức công đoàn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, phát huy vai trò cầu nối giữa người lao động với doanh nhân, doanh nghiệp; phối hợp phát triển doanh nghiệp, xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh, thực hiện trách nhiệm xã hội.
Ngoài ra, nghị quyết cũng yêu cầu đẩy mạnh liên kết, hợp tác ngay trong bản thân đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với doanh nghiệp lớn; giữa doanh nhân, doanh nghiệp với nông dân theo hướng xây dựng các mô hình sản xuất theo chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị; giữa doanh nhân, doanh nghiệp với đội ngũ trí thức, nhất là các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, các trung tâm, viện nghiên cứu, các trường đại học; giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài nước, tạo cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu; chú trọng liên kết, hợp tác theo ngành, cụm sản xuất, chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị.
Thứ sáu, về phát huy vai trò của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các tổ chức đại diện đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp
Nghị quyết số 41-NQ/TW tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của VCCI là một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, thực hiện tốt 3 chức năng, nhiệm vụ của một hội quần chúng do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ: đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nhân, doanh nghiệp; phát triển hội viên, phát triển tổ chức ngày càng vững mạnh; là cầu nối vững chắc giữa Đảng với doanh nhân, góp phần cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết cũng giao nhiệm vụ cho VCCI và các tổ chức đại diện giữ vai trò nòng cốt trong tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ doanh nhân; lắng nghe, tập hợp, phản ảnh, phối hợp giải quyết tâm tư, nguyện vọng của doanh nhân, doanh nghiệp; tham gia đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân, thúc đẩy khởi nghiệp, tập hợp, liên kết, hợp tác, hỗ trợ doanh nhân, doanh nghiệp phát triển bền vững; xây dựng, vận động, thúc đẩy, khuyến khích doanh nhân thực hiện chuẩn mực đạo đức, văn hoá kinh doanh; tôn vinh doanh nhân, doanh nghiệp tiêu biểu.
Để phát huy vai trò của VCCI và các tổ chức đại diện, Nghị quyết yêu cầu: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu lực hoạt động của các tổ chức đại diện hợp pháp của đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp. Nhà nước nghiên cứu, tạo điều kiện cho các tổ chức đại diện doanh nhân tham gia cung cấp một số dịch vụ công phù hợp.
Thứ bảy, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân
Nghị quyết yêu cầu nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng đối với việc xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân. Chú trọng phát triển đảng viên, xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong các loại hình doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa cấp uỷ với tập thể lãnh đạo doanh nghiệp nhằm phát huy vai trò của cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương kết nạp đảng viên là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn, điều kiện. Thành lập đảng bộ cơ sở tại khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp ở nơi có đủ điều kiện. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp, nhất là tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên phù hợp với loại hình, địa bàn, tính chất, quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Đổi mới phương thức quản lý nhà nước theo hướng lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chú trọng quan hệ Nhà nước - doanh nghiệp - người lao động; tăng cường hướng dẫn các tổ chức quần chúng phối hợp với doanh nhân, doanh nghiệp trong hoạt động.
Cuối cùng là phần IV: Tổ chức thực hiện
Để Nghị quyết số 41-NQ/TW sớm đi vào cuộc sống, Nghị quyết đã đề ra 07 nhóm nhiệm vụ cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo như sau:
Một là, các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, đảng uỷ đơn vị sự nghiệp Trung ương tổ chức nghiên cứu, quán triệt, chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết; tăng cường kiểm tra, đánh giá, định kỳ sơ kết, tổng kết thực hiện Nghị quyết.
Hai là, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật, ưu tiên chính sách, pháp luật đổi mới cơ chế, chính sách, tạo thuận lợi phát triển doanh nhân, doanh nghiệp.
Ba là, Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, chiến lược quốc gia phát triển đội ngũ doanh nhân, chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân.
Bốn là, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp, động viên, tôn vinh doanh nhân tiêu biểu; giám sát, phản biện xã hội, phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Năm là, Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức quán triệt, tuyên truyền thực hiện Nghị quyết.
Sáu là, Đảng đoàn Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tỉnh uỷ, thành uỷ tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết theo chức năng, nhiệm vụ được giao; kịp thời đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giải quyết những vấn đề mới phát sinh trong quá trình thực hiện Nghị quyết.
Bảy là, Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với Đảng đoàn Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, đôn đốc, giám sát, kiểm tra, định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.
Nghị quyết số 41-NQ/TW về“xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới” được Bộ Chính trị khóa XIII ban hành và tổ chức triển khai thực hiện trong bối cảnh cả nước ta đang nỗ lực, tập trung triển khai thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với quyết tâm cao độ của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết đồng lòng của cả nước, nhất định Nghị quyết sẽ sớm đi vào cuộc sống để góp phần xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam lớn mạnh, đóng góp xứng đáng cho các mục tiêu phát triển đất nước.
Có thể bạn quan tâm
16:17, 08/05/2024
01:30, 15/12/2023
04:00, 03/12/2023
08:28, 10/05/2024
04:47, 10/05/2024
16:55, 09/05/2024
14:28, 04/01/2024