Một trong những điểm của dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) được nhiều người quan tâm là quy định về việc được hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Ngày 9/11, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật Việc làm (sửa đổi).
Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) dự kiến sẽ được xem xét và thông qua vào năm 2025 kỳ vọng giúp bảo hiểm thất nghiệp phát huy vai trò bảo vệ người lao động cũng như thị trường lao động.
Bên cạnh một số nội dung điều chỉnh cấp tiến, tuy nhiên ở góc độ người lao động vấn đề trợ cấp thất nghiệp nếu dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) được thông qua, có thể xem là một hạn chế so với Luật Việc làm 2013.
Cụ thể, nếu trước đây có hai nhóm không được hưởng trợ cấp thất nghiệp thì dự thảo luật lần này lại loại trừ đến bốn nhóm ra khỏi đối tượng được hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Đó là, người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, hợp đồng làm việc trừ các trường hợp được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước theo quy định Bộ Luật Lao động.
Người lao động bị sa thải theo pháp luật về lao động hoặc bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc theo pháp luật về viên chức.
Người lao động hưởng lương hưu.
Người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu nhưng chưa hưởng lương hưu.
Như vậy, theo dự thảo này người lao động dù đơn phương chấm dứt hợp đồng theo cách nào, hoặc bị sa thải đều không được nhận trợ cấp thất nghiệp.
Điều này sẽ gây thiệt thòi cho người lao động, bởi hàng tháng họ đều phải đóng bảo hiểm thất nghiệp, mà nguyên tắc cơ bản là có đóng có hưởng.
Nhưng với dự thảo luật, nhiều người sẽ rơi vào tình huống có đóng đầy đủ bảo hiểm thất nghiệp nhưng không thể hưởng khoản này nếu chẳng may muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Bên cạnh đó, không ít người lo ngại rằng một số doanh nghiệp (người sử dụng lao động) sẽ lợi dụng quy định mới này để ép nhân viên ký vào đơn xin đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Thậm chí, dựa vào lý do trên doanh nghiệp có thể sa thải, gây khó dễ đối với người lao động trong việc xin hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Chưa kể, nếu dự luật được thông qua thì người lao động không được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, tính từ lúc luật mới có hiệu lực hay sẽ "hồi tố", không tính với toàn bộ quá trình đóng bảo hiểm thất nghiệp tích lũy trước đó?
Dư luận đồng ý với việc cần chỉnh sửa, cập nhật các điều khoản trong luật để phù hợp với tình hình thực tiễn, nhưng cũng mong mỏi các điều khoản trong dự luật cần hài hòa hơn với quyền lợi của người lao động.
Trao đổi về vấn đề này, bà Lê Quỳnh Trang, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho biết, liên quan đến lo lắng về việc doanh nghiệp có thể căn cứ vào những quy định trên để gây bất lợi cho người lao động, xét về bản chất doanh nghiệp không có lợi ích kinh tế trực tiếp từ bảo hiểm thất nghiệp khi gây khó dễ cho người lao động trong xin hưởng trợ cấp thất nghiệp.
“Tuy nhiên rủi ro này hoàn toàn có thể xảy ra trong một số tình huống đặc thù, ví dụ khi có xảy ra mâu thuẫn gay gắt giữa người sử dụng lao động và người lao động”, bà Lê Quỳnh Trang nói.
Do đó, theo bà Lê Quỳnh Trang để đảm bảo quyền lợi cho người lao động, cơ quan quản lý nhà nước cần có giải pháp để quản lý, kiểm soát hiệu quả.
Cụ thể, việc xác định trường hợp người lao động bị sa thải, không được hưởng bảo hiểm thất nghiệp cần thực hiện với quy trình khách quan, tránh quyết định đơn phương từ phía người sử dụng lao động vì một động cơ, mục đích nào đó.
“Cơ chế này có thể được thực hiện thông qua vai trò của công đoàn cơ sở, liên đoàn lao động các cấp hoặc hệ thống trọng tài, tòa án trong lĩnh vực lao động - việc làm”, bà Lê Quỳnh Trang đề xuất.
Vẫn theo bà Lê Quỳnh Trang, bảo hiểm thất nghiệp khác với bảo hiểm xã hội về bản chất. Bảo hiểm xã hội vận hành theo nguyên tắc đóng - hưởng. Còn bảo hiểm thất nghiệp vận hành trên nguyên tắc chia sẻ rủi ro, tức là có rủi ro sẽ được bảo vệ và ngược lại.
Ví dụ, người điều khiển phương tiện giao thông mua bảo hiểm tai nạn xe cơ giới, có thể người mua bảo hiểm không gặp rủi ro trong suốt quá trình đi xe nên dù đóng bảo hiểm trong thời gian dài cũng sẽ không bao giờ được bảo hiểm chi trả.
Nhưng để bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp, cơ quan chức năng có thể nghiên cứu bổ sung phương án cho việc bảo lưu quyền lợi.
“Phần bảo hiểm thất nghiệp không được chi trả sau khi nghỉ việc ở lần đơn phương chấm dứt hợp đồng sẽ tiếp tục được cộng dồn cho quá trình đóng bảo hiểm thất nghiệp sau đó, và chỉ tính mới từ đầu sau khi người lao động được hưởng chế độ của bảo hiểm thất nghiệp sau một lần nghỉ việc”, bà Lê Quỳnh Trang kiến nghị.
Góp ý cho dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), bà Phạm Thị Hồng Yến, Chủ tịch Công đoàn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Intel Việt Nam (thành phố Thủ Đức) đề nghị dự án luật cần bám sát thực tiễn ở cơ sở để làm rõ hơn nhiều nội dung điều, khoản thi hành.
“Hiện còn nhiều cụm từ gây khó hiểu hoặc hiểu nhầm cần rõ ràng, cụ thể hơn, nhất là tại Chương VII liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp”, bà Phạm Thị Hồng Yến nói.
Bà Phạm Thị Hồng Yến cho rằng, dự án luật nên đánh giá tính "chủ động, bị động" thất nghiệp để cân nhắc việc cho người lao động lĩnh bảo hiểm thất nghiệp hay không, cần công bằng, cụ thể hơn đối với người đủ điều kiện và để người lao động tự quyết định mức được hưởng lương hưu hay bảo hiểm thất nghiệp.
Ông Trần Anh Kiệt, Chủ tịch Công đoàn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hitachi Zosen Việt Nam (Quận 1) đánh giá, chính sách bảo hiểm thất nghiệp có nhiều bất cập cần sớm được giải quyết nhằm bảo đảm quyền được tham gia bảo hiểm thất nghiệp và những chính sách đi kèm của loại hình bảo hiểm này để đoàn viên, người lao động có "điểm tựa" vững chắc trong cuộc sống.
Theo quy định hiện hành, đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp chưa bao phủ hết những người có quan hệ lao động, chưa quy định người lao động có hợp đồng lao động từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
"Trong khi đó, đây là nhóm có nguy cơ mất việc làm cao và thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc”, ông Trần Anh Kiệt bày tỏ.