Bộ Tài chính đã bắt đầu khởi động nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.
Đánh giá về Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) cho rằng: Quá trình triển khai thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn cũng đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế bất cập như: việc xác định vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; thẩm quyền quyết định đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp.
Theo Báo cáo nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) về “Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà nước theo nguyên tắc thị trường”, doanh nghiệp Nhà nước chưa có đầy đủ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm để hoạt động theo cơ chế thị trường. Ông Phạm Đức Trung, Trưởng ban Ban Nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp CIEM cho rằng: Cơ quan quản lý Nhà nước còn quyết định nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Lấy ví dụ cụ thể, Chủ tịch Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), ông Lê Tiến Trường chia sẻ, doanh nghiệp Nhà nước phải tuân thủ theo Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp. Theo đó, trước khi biểu quyết tất cả những nội dung thuộc thẩm quyền hội đồng quản trị, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp phải xin ý kiến chủ sở hữu, sau đó triệu tập hội đồng quản trị họp để biểu quyết, thông qua nghị quyết làm cơ sở cho cơ quan điều hành triển khai thực hiện. Thời gian chờ chủ sở hữu trả lời thường không cố định, có thể là một hoặc hai tháng. Trước đây là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, việc chờ cơ quan chủ quản có ý kiến chỉ đạo là đương nhiên nhưng từ năm 2015, Vinatex trở thành công ty cổ phần với 48% vốn điều lệ thuộc về cổ đông ngoài nhà nước cho nên quy trình này sẽ làm khó cho Tập đoàn.
Theo khảo sát của Công ty TNHH Ernst & Young Vietnam, 91% người được khảo sát cho rằng sửa đổi Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nên tập trung vào hoạt động quản lý vốn, chứ không nên tập trung vào các vấn đề quản trị và vận hành của doanh nghiệp nhà nước.
TS. Phan Đằng Chương, Phó tổng giám đốc Dịch vụ tư vấn, Công ty TNHH Ernst & Young Vietnam nhận định: Luật hiện hành điều chỉnh hoạt động đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp; quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và giám sát việc đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp, như vậy là quá rộng. Vì vậy Luật mới chỉ cần giữ lại mục tiêu là quản lý vốn nhà nước, còn các hoạt động khác đã được quản lý bởi các luật chuyên ngành khác nhau.
Đồng quan điểm, ông Tiến cho rằng: Sau khi đầu tư vào doanh nghiệp, vốn nhà nước trở thành vốn của doanh nghiệp, do doanh nghiệp quản lý, sử dụng và định đoạt. Nhà nước trở thành chủ sở hữu của phần vốn góp, cổ phần tương ứng tại doanh nghiệp. Quản lý vốn chỉ tính toán hiệu quả như một nhà đầu tư tính toán giá trị gia tăng của vốn, không đánh giá cách quản lý cụ thể của doanh nghiệp.
“Mục tiêu sửa Luật là nhằm thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước chuyển sang hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường. Phải tách bạch nhiệm vụ của doanh nghiệp có vốn nhà nước với những doanh nghiệp cung cấp sản phẩm dịch vụ công thiết yếu và doanh nghiệp quốc phòng. Nhà nước xác định là nhà đầu tư vốn, không can thiệp vào quyết định kinh doanh của doanh nghiệp", ông Tiến nhấn mạnh.
TS Lê Đăng Doanh, Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM):
Phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước cần đổi mới theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm nguyên tắc ở đâu có vốn nhà nước ở đó có sự quản lý, giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Tuy nhiên, cần phân định rõ quản lý nhà nước đối với quản trị doanh nghiệp, tránh can thiệp hành chính, can thiệp về nhân sự vào doanh nghiệp, thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước theo chuẩn mực quốc tế.
TS Nguyễn Thường Lạng, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân:
Luật cần sửa đổi theo hướng thay đổi đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư vốn nhà nước. Theo đó, phải đánh giá dựa trên giá trị gia tăng của vốn đầu tư và cổ tức, lợi nhuận được chia hàng năm trên hiệu quả hoạt động của đầu tư. Tuy vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh, khó có thể đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước “trăm trận trăm thắng”, phải giám sát yêu cầu hiệu quả nhưng đó là hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp chứ nhà nước không làm thay việc “soi” từng dự án để thấy có dự án nào đó không hiệu quả mà kết luận doanh nghiệp không hiệu quả”.