Chiều 28/11, tại Hà Nội, lãnh đạo các bộ, ngành TW, chuyên gia, các doanh nghiệp, nhà đầu tư đã cùng tham dự Diễn đàn “Hoàn thiện chính sách thu hút làn sóng FDI thế hệ mới vào các khu công nghiệp”.

Được sự chỉ đạo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chiều nay (28/11), tại Hội trường VCCI, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức Diễn đàn “Hoàn thiện chính sách thu hút làn sóng FDI thế hệ mới vào các khu công nghiệp (KCN)”.
Tại Diễn đàn có sự tham dự của Ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI; Ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương; Ông Phạm Thanh Bình - Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thông tin và Hỗ trợ đầu tư phía Bắc, Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính); Ông Nguyễn Bá Hải - Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ XTTM&ĐT (Bộ Công Thương).
Về phía diễn giả gồm có: Ông Nguyễn Xuân Thanh Tùng - Phó Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Việt – Trung; Ông Seck Yee Chung - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Singapre tại Việt Nam (SingCham Vietnam); Ông Trương Mạnh Hùng, Trưởng Ban Ban Quản lý Khu kinh tế Quảng Ninh; Bà Nguyễn Thị Bích Dung - Phó Trưởng ban Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng; Ông Hoàng Văn Mai, Phó trưởng Ban Quản lý KCN Hưng Yên; Ông Đinh Nam Thắng, Phó trưởng Ban Quản lý KCN Bắc Ninh; Bà Nguyễn Phương Nga - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn CNCTech; Ông Trương Khắc Nguyên Minh – Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Prodezi Long An, chủ đầu tư KCN Prodezi; Bà Nguyễn Lê Hằng - Giám đốc Đối ngoại, SLP Việt Nam; Bà Trần Nhị Hà - Phó Giám đốc Ngân hàng Doanh nghiệp LPBank; Ông Hiroki Kamijo - Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc khối FDITB VP Bank...
Về phía Ban tổ chức có sự tham dự của Nhà báo Nguyễn Tiến Dũng, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp; Nhà báo Phạm Thế Nam, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp.
Chia sẻ tại Diễn đàn, Phó Chủ tịch Hoàng Quang Phòng cho biết, FDI thế hệ mới không chỉ hướng đến lợi nhuận mà còn đề cao các tiêu chuẩn về công nghệ cao, chuyển giao tri thức, phát triển xanh, quản trị doanh nghiệp, trách nhiệm xã hội và lao động bền vững.

Theo Phó Chủ tịch Hoàng Quang Phòng, Nghị quyết 50-NQ/TW năm 2019 thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trong thu hút FDI thế hệ mới. Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết riêng về FDI, mở ra kỷ nguyên hợp tác đầu tư nước ngoài chất lượng cao, tập trung vào công nghệ cao, công nghệ nguồn, có sức lan tỏa kinh tế - xã hội, hướng tới các tập đoàn lớn, đặc biệt từ châu Âu và Mỹ.
Phó Chủ tịch VCCI cho biết, sau Nghị quyết 50-NQ/TW, Việt Nam đã triển khai Chiến lược Hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021 - 2030 cùng hàng loạt cơ chế, chính sách mới, từ ưu đãi đầu tư đặc biệt, cơ chế “luồng xanh” cho các dự án ưu tiên, đến việc thành lập Quỹ Hỗ trợ đầu tư và Đề án Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp bán dẫn.
“Sau gần 4 thập kỷ thành công trong FDI, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để đón dòng vốn chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ cao, đổi mới sáng tạo... Một đề án mới về thu hút FDI thế hệ mới đang được Bộ Tài chính khởi thảo, để không bỏ lỡ cơ hội này”, Phó Chủ tịch Hoàng Quang Phòng chia sẻ.
Theo Phó Chủ tịch VCCI, đối với thu hút đầu tư vào các KCN, trải qua 29 năm kể từ khi Chính phủ ban hành quy định cụ thể về KCN trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 (Luật số 52-l/CTN, ngày 11/11/1996), đến nay, số lượng các KCN ngày càng tăng và giữ vai trò then chốt đối với tăng trưởng kinh tế cả nước. Ông nhấn mạnh, nguồn vốn FDI luôn chiếm vị trí quan trọng, đóng góp lớn vào sự phát triển bền vững của các khu công nghiệp Việt Nam trong suốt thời gian qua.
Phó Chủ tịch VCCI cho rằng, trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển mình theo hướng tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, việc rà soát và hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư cho KCN và khu kinh tế (KKT) trở nên hết sức cấp bách. Hiện Bộ Tài chính đang tổ chức lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Nghị định về quản lý KCN và khu kinh tế, trong đó đề xuất sửa đổi mạnh mẽ các quy định về ưu đãi đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư.
Phó Chủ tịch Hoàng Quang Phòng cho biết, điểm nhấn quan trọng và mang tính định hướng nhất của dự thảo Nghị định là việc bổ sung quy định liên quan đến chi phí cho các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính và phát triển mô hình cộng sinh công nghiệp. Ông nhấn mạnh, cơ chế này sẽ tạo ra động lực tài chính mạnh mẽ, khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi sang công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng và áp dụng các giải pháp thân thiện với môi trường.
Trên tinh thần đó, Phó Chủ tịch Hoàng Quang Phòng kỳ vọng sự thay đổi này sẽ mở rộng không gian phát triển kinh tế vùng, thu hút các nhà đầu tư chiến lược sở hữu công nghệ hiện đại, đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh. Đây là một bước quan trọng trong tiến trình hoàn thiện thể chế, hướng tới phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn và bền vững trên bản đồ đầu tư toàn cầu.

Phó Chủ tịch VCCI nhấn mạnh: “Với vai trò là tổ chức đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, VCCI luôn coi việc thúc đẩy phát triển và hoàn thiện môi trường đầu tư là nhiệm vụ trọng tâm. Trong nhiều năm qua, VCCI đã đóng góp vào việc hình thành và điều chỉnh các chính sách thu hút FDI và sự chuyển mình trong chính sách FDI thế hệ mới hiện là một trong những trọng tâm mà VCCI đang hướng tới”.
Phó Chủ tịch Hoàng Quang Phòng bày tỏ tin tưởng rằng, với sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp và các nhà đầu tư, Việt Nam sẽ sớm trở thành trung tâm thu hút FDI thế hệ mới trong khu vực và trên thế giới.
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho biết, gần 40 năm đổi mới, khu vực FDI đã thực hiện sứ mệnh quan trọng, đưa Việt Nam tham gia rộng hơn, trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu, đóng góp đáng kể vào GDP, vốn đầu tư, sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và việc làm.
Theo đó, khu vực này đã đóng góp hơn 20% trong GDP; 15%-18% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội; khoảng 25,4%-28% tổng thu ngân sách; tạo ra hơn 5,1 triệu việc làm; đóng góp hơn 70% giá trị xuất khẩu và hơn 50% giá trị sản xuất công nghiệp của Việt Nam.
Riêng trong giai đoạn 2021–2025, tổng FDI thực hiện đạt hơn 158 tỷ USD, vượt mục tiêu 100–150 tỷ USD đề ra trong Nghị quyết 50-NQ/TW. Trong 10 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã thu hút 31,52 tỷ USD vốn FDI đăng ký, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm ngoái; giải ngân đạt 21,3 tỷ USD, mức cao nhất trong 5 năm, tập trung lớn nhất trong lĩnh vực chế biến, chế tạo.
Đặc biệt, các KCN ngày càng đóng vai trò trung tâm trong thu hút vốn FDI, đặc biệt là dòng vốn FDI thế hệ mới, nhờ cung cấp hạ tầng đồng bộ và môi trường kinh doanh được kiểm soát. Cơ chế quản lý KCN theo mô hình mới đã phát huy vai trò, góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và tạo môi trường đầu tư thuận lợi hơn ở địa phương.
Do đó, vốn FDI trong các KCN, khu kinh tế bình quân hàng năm chiếm khoảng 40% tống vốn FDI đăng ký tăng thêm và trong xu hướng gia tăng những năm gần đây.
Theo ông Hiển, năm 2019, lần đầu tiên, một Nghị quyết riêng về đầu tư nước ngoài được Bộ Chính trị ban hành là Nghị quyết số 50-NQ/TW đã đánh dấu bước ngoặt về tư duy khi chuyển từ “thu hút” sang “hợp tác”, hướng tới dòng vốn đầu tư chất lượng cao và phát triển bền vững.
Ông Hiển nhấn mạnh, điều này khẳng định định hướng lớn của Đảng về thu hút dòng vốn dòng vốn FDI thế hệ mới, là thế hệ FDI công nghệ cao, tập trung vào nghiên cứu và phát triển (R&D), đầu tư xanh, mang lại giá trị gia tăng cao và có sức lan tỏa lớn, liên kết chặt chẽ với khu vực trong nước, đưa Việt Nam tích hợp sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu; đồng thời, có năng lực quản trị hiện đại, trách nhiệm xã hội và cam kết phát triển dài hạn.
Ông Hiển cho biết thêm, qua 29 năm kể từ khi Chính phủ Việt Nam ban hành quy định cụ thể về KCN trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, đến nay, số lượng các KCN ngày càng tăng, hiện có khoảng 478 KCN được thành lập, giữ vai trò then chốt đối với tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Cơ chế, chính sách quản lý, phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN liên tục được bổ sung, hoàn thiện. Trước yêu cầu đón bắt làn sóng FDI mới, Nghị quyết 50/NQ-TW (2019) của Bộ Chính trị đã đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế, chính sách cho các KKT, KCN, khu công nghệ cao và các mô hình tương tự khác theo hướng xác định rõ trọng tâm phát triển và cơ chế, chính sách vượt trội phù hợp với đặc thù của từng mô hình. Năm 2022, Nghị định 35/2022/NĐ-CP về quản lý KCN, KKT được Chính phủ ban hành nhằm khắc phục “điểm nghẽn” tồn tại trong Nghị định 82/2018/NĐ-CP, đáp ứng yêu cầu mới, bổ sung một số mô hình KCN mới, đồng thời đồng bộ hoá với các luật mới (đầu tư, doanh nghiệp, quy hoạch, xây dựng, môi trường…).
Đến nay, Nghị quyết 57-NQ/TW tiếp tục đặt ra nhiệm vụ “phát triển các KCN công nghệ số” - là một trong những yêu cầu để hiện thực hóa mục tiêu phát triển KHCN của đất nước.
Mới đây, Nghị quyết 224/2025/QH15 (27/6/2025) yêu cầu “tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện quy định, có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, phát triển các loại hình KCN, KKT mới bao gồm KCN sinh thái, KCN chuyên ngành, KCN hỗ trợ, KCN công nghệ cao, KKT chuyên biệt, khu thương mại tự do và các mô hình tương tự”.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang nỗ lực chuyển mình, hướng tối mục tiêu tăng trưởng 2 con số, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, hiện thực hóa các mục tiêu Trung ương và Quốc hội đặt ra, Chính phủ đang nỗ lực xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 35/2022/NĐ-CP nhằm hoàn thiện khung pháp lý về KCN, KKT, điều chỉnh để phù hợp với các luật mới về đất đai, quy hoạch, đầu tư công và phân cấp quản lý địa phương..., giảm khoảng trống pháp lý và đồng bộ hóa quy hoạch, đồng thời đề xuất sửa đổi mạnh mẽ các quy định về ưu đãi đầu tư. Đây sẽ là cơ hội, là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy thu hút đầu tư FDI vào các KCN.
Nhìn chung, Việt Nam đã và đang có nhiều điều kiện thuận lợi thúc đẩy thu hút FDI, đặc biệt là FDI chất lượng cao vào các KCN như môi trường chính trị- kinh tế, xã hội ổn định, an toàn với thị trường tiềm năng 100 triệu dân, nguồn lao động trẻ dồi dào; đi kèm lợi thế dẫn đầu khu vực về hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa kết nối thị trường với 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã được ký kết; là điểm đến hấp dẫn toàn cầu trong xu hướng dịch chuyển dòng vốn FDI; cùng với đó là một loạt cơ chế chính sách thu hút FDI cởi mở, thông thoáng hơn và trọng tâm hơn.
Mặc dù vâỵ, ông Hiển nhận định, vẫn còn những hạn chế, những vấn đề lớn cần thẳng thắn nhìn nhận trong việc thu hút dòng vốn FDI. Cụ thể, Mặc dù dòng vốn FDI thu hút tăng mạnh, nhưng đóng góp của khu vực FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội vẫn tương đối khiêm tốn và trong xu hướng giảm, đặc biệt là từ năm 2018 đến nay, mức giảm từ 17,9% năm 2018 xuống 16,5% năm 2024. Lợi thế chi phí thấp/lao động giá rẻ dần mất vị thế cạnh tranh.
Bên cạnh đó, chất lượng vốn FDI và tính lan tỏa còn thấp. Đóng góp của FDI trong việc nâng cao năng lực công nghiệp còn hạn chế. Liên kết giữa khối doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước yếu; tỷ lệ nội địa hóa của doanh nghiệp FDI ở mức thấp (chỉ khoảng 20-25%); đóng góp của khu vực FDI vào hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu thấp hơn rất nhiều so với các nước Đông Á và Đông Nam Á.

Trình độ công nghệ và chuyển giao công nghệ chưa cao khi các doanh nghiệp FDI, thậm chí cả một số tập đoàn công nghệ lớn vẫn chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực gia công lắp ráp, thâm dụng lao động và ít có khả năng tạo tác động lan tỏa về công nghệ. Số lượng, quy mô các dự án đầu tư vào công nghệ cao, xanh, sạch, thân thiện môi trường thấp xa so với mục tiêu Nghị quyết 50-NQ/TW.
Đáng chú ý, sự phụ thuộc rất lớn của Việt Nam vào khu vực FDI trong xuất khẩu và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu đặt ra yêu cầu phải nâng cao năng lực tự chủ xuất khẩu, năng lực kết nối của khu vực kinh tế trong nước, hướng tới chuyển dịch theo hướng xuất khẩu bền vững và tự chủ hơn trong dài hạn.
Đặc biệt, ông Hiển cũng chỉ ra, thể chế, chính sách và các điều kiện hạ tầng, nhân lực để thu hút FDI thế hệ mới còn khá nhiều hạn chế. Thể chế, cơ chế chính sách và môi trường kinh doanh chưa thực sự thuận lợi, còn nhiều rủi ro, thủ tục hành chính còn phức tạp, mất nhiều thời gian, nhất là trong cấp phép sau đầu tư (liên quan đến vấn đề đất đai, xây dựng, môi trường, PCCC).
Từ chính sách đến thực thi tại địa phương vẫn có những tồn tại, năng lực thể chế ở một số địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý dòng vốn FDI thế hệ mới, nhất là ở khâu phân tích, thẩm định các dự án công nghệ cao, v.v. Cơ chế ưu đãi chưa đảm bảo khả năng cạnh tranh quốc tế; Cơ chế khuyến khích, ưu đãi để tăng để tăng liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghệp trong nước chưa thỏa đáng, trong khi điều kiện, thủ tục hưởng ưu đãi khó đáp ứng; cách tiếp cận, hỗ trợ chưa phù hợp, còn mang tính đại trà, thiếu lựa chọn đối tượng hỗ trợ là doanh nghiệp có đủ năng lực kết nối. Đối với các KCN, KKT, ngoài các ưu đãi chung, ưu đãi đầu tư vào các KCN hiện nay mới chủ yếu tập trung ở ưu đãi thuế và ưu đãi về hạ tầng (thuê đất đai,…); Hạ tầng và nguồn nhân lực còn là điểm nghẽn...
Bước vào giai đoạn mới, ông Hiển cho biết, dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng XIV định hướng toàn diện hơn về thu hút FDI, đó là “thu hút có chọn lọc các dự án FDI; tập trung chủ yếu cho phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, phát thải thấp; thúc đẩy kết nối khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước, thực hiện có hiệu quả quá trình chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và đào tạo nguồn nhân lực; hình thành hệ sinh thái và tăng cường chuỗi liên kết giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước”.
Để hiện thực hóa yêu cầu đó và tiếp tục thu hút có hiệu quả dòng vốn FDI thế hệ mới theo tinh thần của Nghị quyết số 50-NQ/TW, đặc biệt là thu hút FDI chất lượng cao vào các KCN, KKT, đồng thời, góp phần hoàn thiện nội dung Đề án Định hướng thu hút dòng vồn FDI thế hệ mới mà Bộ Tài chính đang xây dựng; ông Hiển nhấn mạnh, cần một cách tiếp cận mới, đồng bộ và quyết liệt hơn.
Ông Hiển cũng gợi ý, các bên cần có những trao đổi, thảo luận cụ thể, tập trung vào việc cần định vị rõ ràng Chiến lược thu hút dòng vốn FDI thế hệ mới. Trong chiến lược đó, cần xác định rõ lĩnh vực trọng tâm, ưu tiên thu hút FDI.
Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển và các quốc gia chuyển đổi thành công là xác định rất rõ lĩnh vực “xương sống” của nền kinh tế trong tương lai, như công nghiệp bán dẫn, AI, công nghệ cao, năng lượng xanh,….
Ông Hiển cho biết:"Chiến lược thu hút FDI không chỉ phục vụ mục đích thu hút vốn, mà còn hướng đến xây dựng hệ sinh thái toàn diện, kết nối FDI với khu vực doanh nghiệp trong nước, dần làm chủ công nghệ và chiếm lĩnh các vị trí quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu."
Bên cạnh đó, tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách, cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư, đặc biệt cần nhanh chóng xây dựng thể chế chính sách, bao gồm cả các cơ chế thử nghiệm, sandbox đối với những lĩnh vực mới như AI, công nghệ số, năng lượng xanh, v.v... Đồng thời, nghiên cứu thiết kế lại công cụ ưu đãi đầu tư và thúc đẩy liên kết – lan tỏa thích ứng với bối cảnh mới; chuyển từ ưu đãi thuế sang ưu đãi dựa trên chi phí (R&D, khấu hao và đào tạo) hoặc dựa trên kết quả đầu ra. Xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện, đặc biệt là các vấn đề về phát triển hạ tầng. Ông cũng thông tin rằng Việt Nam hiện đang đối mặt với những thách thức lớn về hạ tầng và sự thiếu hụt đất “sạch” cho các nhà đầu tư lớn, đặc biệt tại các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội và TP HCM.
Ngoài ra, cần tập trung phát triển mô hình KCN chuyên sâu, KCN thông minh, sinh thái, các khu công nghệ cao với môi trường và thể chế vượt trội, có hạ tầng kết nối chiến lược, năng lượng tái tạo và hạ tầng xã hội, tạo điều kiện tốt nhất cho các tập đoàn nước ngoài đáp đầu tư, sản xuất tại Việt Nam. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Hoàn thiện chính sách về lao động theo yêu cầu của các FTA thế hệ mới.
Song song với các cơ chế thu hút, ông Hiển cũng cho rằng cần có cơ chế sàng lọc đầu tư minh bạch, hiệu quả, với quy trình, quy định rõ ràng. Điểm nhấn quan trọng và mang tính định hướng là cần có quy định rõ ràng về chi phí cho các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính và phát triển mô hình cộng sinh công nghiệp. Cơ chế này giúp tạo ra một động lực tài chính mạnh mẽ, khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi sang công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng và thực hiện các giải pháp thân thiện với môi trường.
Việt Nam đang đứng trước thời cơ lớn để chuyển mình trở thành trung tâm sản xuất gắn với đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững trong khu vực. Việc hoàn thiện chính sách thu hút làn sóng FDI thế hệ mới vào các KCN sẽ đóng vai trò quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu này.
Ông Hiển nhấn mạnh, với quyết tâm chính trị cao, sự đồng lòng của toàn xã hội, sự sáng suốt trong lựa chọn chiến lược và chủ động thích ứng, với quyết tâm tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, hoàn thiện cơ chế chính sách, Việt Nam có thể thu hút và tận dụng hiệu quả dòng vốn FDI thế hệ mới, biến các KCN thành trung tâm sản xuất tiên tiến, bền vững, đóng góp vào mục tiêu phát triển lâu dài đất nước.
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Phạm Thanh Bình – Giám đốc Trung tâm xúc tiến thông tin hỗ trợ đầu tư phía Bắc, Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Tài chính cho biết, Việt Nam đã và đang trở thành điểm đến của nhiều tập đoàn, công ty lớn trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo, điện tử, năng lượng, dịch vụ.
Tuy nhiên, theo ông, với bối cảnh thế giới đang thay đổi mạnh mẽ, từ chuyển dịch chuỗi cung ứng, chuyển đổi số cho đến các cam kết về tăng trưởng xanh, đặt ra yêu cầu Việt Nam phải tái định vị chiến lược, hướng đến thu hút nguồn vốn FDI chất lượng và giá trị hơn”.

Theo ông Phạm Thanh Bình, trong những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục khẳng định là một trong những điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI. Dù tình hình kinh tế toàn cầu còn nhiều bất ổn, môi trường đầu tư tại Việt Nam tiếp tục được cải thiện mạnh mẽ, thực sự hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tính riêng 10 tháng đầu năm 2025, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt gần 31,5 tỷ USD, tăng trên 15,6% so với cùng kỳ 2024. Vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 21,3 tỷ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ. Tính lũy kế đến nay, đã có 153 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư tại Việt Nam với tổng số 44.801 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 525,86 tỷ USD.
Ông Bình cho rằng, những con số ấn tượng này thể hiện niềm tin mạnh mẽ của cộng đồng nhà đầu tư quốc tế vào môi trường đầu tư và triển vọng phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam trong trung và dài hạn.
“Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai nhiều cải cách thể chế, cắt giảm thủ tục hành chính, minh bạch hóa thông tin và số hóa toàn diện hoạt động quản lý đầu tư, với quyết tâm cao nhằm kiến tạo môi trường đầu tư thuận lợi, công bằng, và hiệu quả”, ông Bình nhấn mạnh.
Trên thực tế, Việt Nam đã và đang trở thành điểm đến của nhiều tập đoàn, công ty lớn trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo, điện tử, năng lượng, dịch vụ. Tuy nhiên, với bối cảnh thế giới đang thay đổi mạnh mẽ – từ chuyển dịch chuỗi cung ứng, chuyển đổi số cho đến các cam kết về tăng trưởng xanh – đặt ra yêu cầu Việt Nam phải tái định vị chiến lược, hướng đến thu hút nguồn vốn FDI chất lượng và giá trị hơn.
Theo ông Bình, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tập trung vào những định hướng sau:
Một là, ưu tiên thu hút FDI công nghệ cao, đổi mới sáng tạo; đặc biệt trong lĩnh vực bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học và các trung tâm R&D.
Hai là, thúc đẩy đầu tư chuyển đổi xanh, phát triển bền vững, năng lượng tái tạo và năng lượng tuần hoàn.
Ba là, tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ và năng lực sản xuất.
Bốn là, thu hút đầu tư có chọn lọc, gắn với các tiêu chí môi trường, sử dụng đất hiệu quả, đóng góp vào ngân sách nhà nước và đảm bảo trách nhiệm với xã hội.
Năm là, phát triển mô hình Trung tâm Tài chính quốc tế và Khu Thương mại tự do, tập trung thu hút đầu tư vào các mô hình mới này.
Và cuối cùng, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chế biến nông sản, phát triển vùng nguyên liệu bền vững.

Để hiện thực hóa những định hướng trên, theo ông Bình, Việt Nam cần phải có những giải pháp và hành động cụ thể như hoàn thiện thể chế và chính sách đầu tư, tăng tính ổn định và niềm tin cho nhà đầu tư; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi tối đa trong quá trình triển khai dự án; nâng cấp cơ sở hạ tầng, đặc biệt là logistics, năng lượng và hạ tầng khu công nghiệp theo hướng hiện đại - xanh – thông minh; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng được yêu cầu công nghệ hiện đại; tăng cường xúc tiến đầu tư trọng điểm, hướng vào các tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực công nghệ cao và năng lượng sạch.
Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới với quyết tâm chuyển dịch mô hình tăng trưởng theo hướng đổi mới sáng tạo, xanh và bền vững. Do đó, theo ông Bình, việc chuyển dịch trọng tâm thu hút FDI giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình đó. "Cục Đầu tư nước ngoài cam kết tiếp tục đồng hành cùng các nhà đầu tư, kiến tạo môi trường đầu tư minh bạch, thuận lợi và cạnh tranh để các dự án FDI phát triển hiệu quả, đóng góp tích cực cho sự thịnh vượng của Việt Nam" - ông nhấn mạnh.
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Bá Hải - Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ xúc tiến thương mại và đầu tư (Bộ Công Thương) cho biết: Trong xu hướng chuyển dịch của chuỗi cung ứng toàn cầu, nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn đang chuyển cơ sở sản xuất toàn cầu về Việt Nam - trung tâm sản xuất Đông Nam Á và mắt xích chính trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ngoài nền tảng vĩ mô, Việt Nam có nhiều lợi thế trong thu hút FDI như chi phí lao động cạnh tranh so với các đối thủ; môi trường xuất nhập khẩu ưu việt thông qua việc ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do. Đáng chú ý, Việt Nam chuyển đổi từ cơ sở sản xuất sang thị trường tiêu dùng với lợi thế dân số đông, hơn 100 triệu người; chi tiêu tiêu dùng tăng nhanh…
Dòng vốn FDI vào Việt Nam luỹ kế đến tháng 10/2025 đạt 525,8 tỷ USD với 44.801 dự án từ 153 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, Hàn Quốc đứng đầu về đầu tư tích luỹ với hơn 10.000 dự án đầu tư, tạo việc làm hơn 1 triệu lao động.
Theo ông Nguyễn Bá Hải, dòng vốn FDI có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và là động lực chính thúc đẩy xuất khẩu, đưa Việt Nam hội nhập sâu vào thương mại toàn cầu. FDI cũng đã tạo ra ngành xuất khẩu mới, nâng chuẩn và năng suất sản xuất, từ đó kéo mặt bằng năng suất chung của nền kinh tế tăng theo. Tuy nhiên, liên kết với các doanh nghiệp nội địa còn yếu nên mức độ lan tỏa từ FDI sang doanh nghiệp nội địa còn hạn chế.
Doanh nghiệp trong nước chỉ tham gia ở các khâu giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc vào “đầu vào nhập khẩu” và “mô hình sản xuất dựa trên lắp ráp”. Thực tế này đang làm hạn chế giá trị gia tăng trong nước và khả năng chuyển giao tri thức từ FDI sang doanh nghiệp Việt Nam.

Tương tự như vậy, doanh nghiệp FDI trả lương cao hơn khoảng 20% so với doanh nghiệp trong nước và cung cấp nhiều chương trình đào tạo nội bộ hơn song do chỉ tập trung vào lao động phổ thông làm hạn chế nâng cao kỹ năng chuyên môn trong dài hạn.
Tỷ lệ nội địa hoá thấp cũng khiến cho phần lớn giá trị xuất khẩu do FDI là giá trị linh kiện, dịch vụ nhập khẩu hoặc giá trị gia tăng nằm ở bên ngoài Việt Nam. Ở cấp độ vĩ mô, việc phụ thuộc nhiều vào FDI cũng khiến nền kinh tế dễ bị tác động bởi các biến động bên ngoài.
Nhấn mạnh thời gian tới là giai đoạn mà “chất lượng” là yếu tố trọng yếu đối với FDI, ông Nguyễn Bá Hải cho rằng, cần có chính sách lan toả nguồn vốn FDI và khuyến khích doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng.
Trên cơ sở đó, ông Nguyễn Bá Hải đề xuất một số khuyến nghị. Cụ thể, về nguồn nhân lực, cần gắn đào tạo với khu vực sản xuất, khu công nghiệp; về thị trường, FDI không chỉ phục vụ sản xuất và xuất khẩu mà cần hướng tới cung ứng sản phẩm hàng hoá tại thị trường nội địa.
Tài nguyên là nguồn dự trữ chiến lược cần ưu tiên trước cho các địa phương, nhất là trong bối cảnh Chính phủ đang đẩy mạnh nội địa hóa nguyên vật liệu giảm phụ thuộc vào nhập khẩu. Gắn liền với đó là phát triển công nghiệp hỗ trợ tại nhiều tỉnh thành, hình thành các khu chuyên cung ứng linh kiện, bán thành phẩm cho doanh nghiệp FDI…

Điều phối phiên thảo luận với chủ đề: Hoàn thiện chính sách thu hút FDI thế hệ mới, nhà báo Nguyễn Tiến Dũng - Phó Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp cho biết, việc thu hút FDI mang lại nhiều lợi thế quan trọng cho phát triển đất nước, nhưng cũng xuất hiện một số bất cập cần được điều chỉnh. Ông nhấn mạnh mong muốn các chuyên gia tham dự Diễn đàn đóng góp ý kiến, để VCCI và Ban Chính sách chiến lược Trung ương tổng hợp, báo cáo Chính phủ, nhằm giúp các cơ quan hoạch định chính sách đưa ra quyết định đúng đắn, đồng thời đánh giá thực trạng triển khai ở các địa phương.
Chia sẻ tại phiên thảo luận về chiến lược thu hút đầu tư đến mô hình phát triển bền vững trong KCN dưới góc nhìn của Quảng Ninh, ông Trương Mạnh Hùng - Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế Quảng Ninh cho biết, đến nay tổng vốn FDI Quảng Ninh đạt 17 tỷ USD với 232 dự án, dự kiến năm 2025 thu hút khoảng 250 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư ngoài ngân sách, trong đó FDI chiếm gần 1 tỷ USD. Tuy nhiên, theo ông Hùng, trong khi vốn trong nước tăng mạnh, FDI tại địa phương lại có xu hướng giảm. Ông Hùng cho biết, Quảng Ninh hiện có 10 KCN đã được cấp phép, tổng diện tích 3.900 ha. Quy hoạch giai đoạn 2021-2030 dự kiến phát triển 23 KCN với tổng diện tích 18.900 ha, trong đó còn dư địa khoảng 15.000 ha. Trong nhiệm kỳ 2020-2025, trọng tâm là các ngành chế biến, chế tạo, chuyển hướng từ dịch vụ công nghiệp sang công nghiệp dịch vụ.

“Quảng Ninh ưu tiên thu hút FDI thế hệ mới, tập trung vào công nghiệp chế biến, công nghệ cao, sạch, giá trị lớn, quản trị hiện đại và có tác động lan tỏa. Ngoài ra, tỉnh cũng ưu tiên phát triển du lịch, dịch vụ đẳng cấp, sản xuất năng lượng tái tạo và nuôi biển công nghệ cao” - ông Hùng chia sẻ.
Ông Hùng cũng thông tin thêm, về địa bàn phát triển, KKT ven biển Quảng Yên được định hướng tập trung vào công nghiệp chế biến, tận dụng cảng biển và các tuyến kết nối phía Nam. KCN Việt Hưng, với diện tích 300 ha, hiện đang được Tập đoàn Thành Công đầu tư các dự án phụ trợ cho ngành ô tô. KCN Việt Hưng 2 dự kiến mở rộng thêm 500 ha, nâng tổng diện tích đầu tư lên 800 ha. Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đang hoàn thiện đề án phát triển đặc khu để trình Trung ương, bao gồm cảng hàng không quốc tế có thể đón nhận các loại máy bay thân rộng sử dụng để vận chuyển hàng hoá. Đồng thời Quảng Ninh cũng dự kiến xây dựng trung tâm bảo dưỡng, sửa chữa máy bay quy mô lớn.
Tại khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái và lân cận, Quảng Ninh phát triển các KCN chuyên ngành như dệt may, tiếp cận thị trường và nhập nguyên vật liệu từ Trung Quốc, đồng thời đề xuất thí điểm hợp tác với Trung Quốc trong công nghiệp, thương mại, dịch vụ logistics, dịch vụ cửa khẩu và đào tạo nghề. Trong lĩnh vực kinh tế biển, tỉnh quy hoạch trên 45 ha nuôi biển công nghệ cao, hướng tới phát triển chuyên nghiệp hơn.

Thông tin tại diễn đàn bà Nguyễn Thị Bích Dung – Phó Trưởng ban Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng cho biết, tính lũy kế đến tháng 11/2025, Hải Phòng đã thu hút gần 1.740 dự án FDI với tổng vốn đầu tư ước đạt trên 50,1 tỷ USD; suất đầu tư trung bình ước đạt 13 triệu USD/ha, cao gấp hơn 3 lần so với suất đầu tư bình quân chung của cả nước (khoảng 4 triệu USD/ha). Trong đó, khu vực FDI đóng góp tới 43,7% tổng GRDP thành phố, trên 80% giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu toàn thành phố; tỷ trọng thu hút các dự án FDI trong lĩnh vực công nghệ cao, chế biến, chế tạo, cảng biển, logistics được nâng cao liên tục, luôn đạt trên 70%, cụ thể: năm 2021 đạt 83,3%, năm 2022 đạt 81,8%, 2023 đạt 71%; 2024 đạt 80%; 2025 ước đạt 80%.
Với những kết quả đạt được, Hải Phòng luôn nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn FDI thuận lợi hơn, cũng như có cơ hội lựa chọn nguồn vốn phù hợp, tập trung vào chất lượng, phục vụ sát mục tiêu, định hướng phát triển của thành phố, hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.
Để thu hút FDI vào các KCN, KKT hiệu quả hơn, phục vụ đúng mục tiêu, bà Dung cho biết, cần có sự trưởng thành khẳng định của các doanh nghiệp trong nước trong việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Do đó, chính sách hỗ trợ kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp địa phương là cần thiết.
Bà Dung cũng chia sẻ, hiện nay năng lực doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, qua các chương trình kết nối, có khoảng cách nhất định giữa năng lực đáp ứng giữa doanh nghiệp Việt Nam với nhu cầu của doanh nghiệp FDI. Do đó, cần có chính sách nâng đỡ doanh nghiệp địa phương, tăng năng lực đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp FDI. Hoặc thí điểm mô hình thành công của doanh nghiệp Việt Nam, từ đó nhân rộng ra các doanh nghiệp. Đồng thời, tăng kết hợp giữa các cơ quan Trung ương với các quỹ hỗ trợ từ các địa phương để dồn lực tập trung cho mô hình hợp tác thành công giữa doanh nghiệp địa phương và FDI.
“Hiện nay, có sự phát triển mô hình mới như trung tâm tài chính, khu thương mại tự do… Do đó, cần thúc đẩy định hướng chính sách, quy định cụ thể, khung pháp lý để hỗ trợ các địa phương vận hành các mô hình này một cách hiệu quả. Đồng thời, xử lý những khoảng trống, điểm chồng chéo trong quy định và tiêu chí để xem xét công nhận KCN sinh thái” – bà cho biết.
Liên quan đến nguồn nhân lực, bà Dung cho rằng đây là yếu tố quan trọng để thúc đẩy thu hút FDI. Theo đó, cần tích cực thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo, như xây dựng các khóa đào tạo chuyên biệt theo nhu cầu của doanh nghiệp, chuyển giao kiến thức công nghệ, tài trợ thiết bị vật mẫu phục vụ thực hành… Bên cạnh đó, cần chính sách, bệ đỡ từ Trung ương đến địa phương trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ưng được nhu cầu của nhà đầu tư.

Phát biểu tại Diễn đàn “Hoàn thiện chính sách thu hút làn sóng FDI thế hệ mới vào các khu công nghiệp”, ông Nguyễn Xuân Thanh Tùng, Phó Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Việt-Trung (VCBC), đã đưa ra nhìn nhận vừa thận trọng vừa lạc quan về thực tế này, đồng thời nêu rõ những rào cản cần được tháo gỡ để biến tiềm năng thành hiện thực.
Theo ông Tùng, nhiều đoàn doanh nghiệp Trung Quốc đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng khi tiếp cận thị trường Việt Nam: họ đến để khảo sát, tìm đối tác phân phối, thử nghiệm thương mại trước khi quyết định đầu tư sản xuất quy mô lớn. Có tới “hơn 50%” doanh nghiệp mà tổ chức ông tiếp xúc thể hiện ý định đầu tư vào Việt Nam trong 2-3 năm tới, con số này, cho thấy một nguồn cầu thật sự chứ không phải đơn thuần là quan sát thị trường.
Các cơ hội, theo ông Tùng, sẽ đến từ chuyển giao công nghệ, nâng cấp dây chuyền sản xuất tới đầu tư vào các ngành công nghệ cao như ô tô điện, robot, và công nghiệp phụ trợ. Ông Tùng cũng nhấn mạnh xu hướng doanh nghiệp Trung Quốc mang theo cả chuỗi cung ứng và hệ sinh thái doanh nghiệp của họ khi đầu tư, điều này có thể tạo ra các “cụm” sản xuất nhanh chóng và nâng cao năng lực xuất khẩu cho địa phương. Đồng thời, các hoạt động kết nối do VCBC phối hợp, mời chuyên gia Trung Quốc đánh giá thị trường và phối hợp với chủ đầu tư khu công nghiệp Việt Nam, được coi là một bước thực tiễn giúp rút ngắn thời gian ra quyết định của nhà đầu tư.
Tuy nhiên, vẫn có những thách thức không hề nhỏ. Nổi bật là khoảng cách về nguồn nhân lực kỹ thuật. Theo ông Tùng, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đánh giá rằng lao động địa phương hiện chưa đáp ứng ngay được yêu cầu cho các nhà máy công nghệ cao. Vấn đề đào tạo, liên kết nhà trường với doanh nghiệp và xây dựng cơ sở huấn luyện chuyên ngành, vì thế, được ông Tùng đặt lên hàng đầu. Ông dẫn chứng các sáng kiến hợp tác đào tạo với trường đại học và trung tâm quốc tế, thậm chí đề xuất việc chuyên gia Trung Quốc trực tiếp sang đào tạo để nhanh chóng nâng cao tay nghề cho giáo viên và công nhân Việt Nam.
Một rào cản khác là cơ chế phối hợp giữa chính quyền địa phương, chủ đầu tư khu công nghiệp và các hiệp hội Trung Quốc. Để thu hút những dự án lớn hơn nữa, cần chính sách minh bạch, đầu mối hỗ trợ rõ ràng và những cơ chế thuận lợi cho doanh nghiệp song phương, từ thủ tục đến ưu đãi hạ tầng và bảo đảm về chuỗi cung ứng.
Kết thúc phần tham luận của mình, ông Tùng nhận định, cơ hội đang ở đó, nhưng để tận dụng, Việt Nam cần vừa chủ động kết nối, vừa đầu tư vào con người và hoàn thiện khung chính sách. Nếu làm được, dòng vốn đầu tư từ Trung Quốc có thể trở thành động lực để các khu công nghiệp Việt Nam chuyển mình lên tầng giá trị mới.

Ông Phan Hữu Thắng - nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính), Chủ tịch Liên chi hội tài chính khu công nghiệp cho biết, nói đến FDI thế hệ mới là liên quan đến đầu tư xanh và công nghệ cao. Để thu hút FDI thế hệ mới, ông Phan Hữu Thắng đề xuất một số kiến nghị cụ thể.
Thứ nhất, với Chính phủ, cần sớm ban hành Chiến lược thu hút FDI thế hệ mới giai đoạn 2025 - 2035; phê duyệt Bộ tiêu chí quốc gia về FDI thế hệ mới phù hợp với từng địa phương, từng vùng; xây dựng gói đặc biệt ưu đãi cho công nghệ cao và bán dẫn.
Thứ hai, Bộ Tài chính cần hoàn thiện khung pháp luật về KCN xanh, KCN sinh thái; thiết lập cơ chế dữ liệu quốc gia về FDI; xác định mức ưu đãi về thuế cho R&D, cho đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, liên quan đến tổ chức thực hiện, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho thế hệ mới để có lực lượng lao động sẵn sàng tham gia chuỗi, đồng thời giao các trường dạy nghề về các địa phương. Hiện nay, tỷ lệ doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 70%, trong khi các doanh nghiệp trong nước, theo VCCI, 98% là doanh nghiệp SME, trình độ nhân lực hạn chế. Do đó, dù doanh nghiệp FDI có mong muốn liên doanh cũng khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác kết nối, chuyển giao.
Cuối cùng, trong giai đoạn phát triển mới, cần thúc đẩy liên kết và chính sách áp dụng từng vùng miền cụ thể thay cho chính sách áp dụng chung trong toàn quốc.

Chia sẻ quan điểm và chiến lược thu hút FDI bền vững, cùng các giải pháp nhằm nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả thu hút FDI thế hệ mới, ông See Yee Chung, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Singapore tại Việt Nam (SingCham Việt Nam), nhấn mạnh sự khích lệ trước cách tiếp cận chủ động của Chính phủ Việt Nam trong xây dựng chính sách thu hút FDI vào các KCN, bất chấp những tác động của đại dịch và bối cảnh địa chính trị. Ông See Yee Chung đánh giá cao nỗ lực của lãnh đạo Việt Nam, doanh nghiệp, người dân và lực lượng lao động trong việc thích ứng, từ đó giúp nền kinh tế duy trì tính kiên cường và tiếp tục tăng trưởng. Đồng thời, xuất khẩu sang Mỹ vẫn ghi nhận mức tăng ổn định, trong khi Việt Nam cũng đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế xanh, công nghệ cao và bền vững - những ưu tiên được SingCham và cộng đồng quốc tế quan tâm.
Ông cũng ghi nhận các khung pháp lý mới như Quyết định 232/QĐ-TTg về cơ chế xây dựng thị trường carbon và Nghị định số 119/2025/NĐ-CP về giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ozone, đồng thời kỳ vọng các quy định này sẽ trở thành nền tảng giúp Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
Tuy nhiên, ông See Yee Chung chỉ ra một số thách thức trong quá trình triển khai, từ năng lượng, cơ sở hạ tầng, đến cấp phép, sử dụng đất và nhân lực. Ông nhấn mạnh: “Việc cải thiện thời gian và thủ tục phê duyệt, đồng thời hoàn thiện các hướng dẫn pháp lý là điều cần thiết để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư”.
Về năng lượng, ông lưu ý nhu cầu sẽ tăng cao với các dự án sản xuất công nghệ cao và trung tâm dữ liệu, đồng thời đề xuất nâng cấp lưới điện và hoàn thiện các luật PPP để tối ưu hóa hiệu quả đầu tư. Về lĩnh vực đất đai, ông đánh giá cao các nỗ lực cải cách Luật đất đai, Luật bất động sản và việc ban hành Nghị định 19/2025/NĐ-CP nhằm nâng cao chất lượng KCN, thu hút các ngành công nghệ cao và rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều quan trọng vẫn là đảm bảo các thủ tục được thực hiện đúng thời hạn luật định.
Ngoài ra, ông See Yee Chung cũng lưu ý đến hệ sinh thái đầu tư, nhấn mạnh vai trò của cơ sở hạ tầng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhà cung cấp dịch vụ và việc hoàn thiện pháp lý trong các lĩnh vực như sử dụng thiết bị đã qua sử dụng, giấy phép lao động cho chuyên gia nước ngoài, cũng như hạ tầng số và trung tâm dữ liệu. "Singapore là nhà đầu tư, đối tác và bạn đồng hành của Việt Nam, đồng thời bày tỏ mong muốn tiếp tục hợp tác chặt chẽ để thu hút thêm FDI vào Việt Nam", Phó Chủ tịch SingCham Việt Nam chia sẻ.
.jpg)
Chia sẻ tại phiên thảo luận, bà Nguyễn Phương Nga – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn CNCTech cho biết, các tập đoàn đa quốc gia tìm kiếm những điểm đến có hệ sinh thái sản xuất ổn định, hạ tầng tin cậy, và mức độ sẵn sàng cao để đảm bảo tính linh hoạt của chuỗi cung ứng. Điều này đặt ra yêu cầu rất lớn đối với hạ tầng KCN tại các nước tiếp nhận dòng vốn mới như Việt Nam.
Theo bà Nga, hạ tầng KCN ngày nay không còn dừng lại ở việc cung cấp mặt bằng đã san lấp hay nhà xưởng đơn thuần. Các nhà đầu tư FDI thế hệ mới, đặc biệt trong ngành công nghệ cao, điện tử, cơ khí chính xác, đòi hỏi một hệ sinh thái toàn diện bao gồm: hạ tầng tiêu chuẩn quốc tế, logistics hiện đại, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp đầy đủ, khả năng tích hợp công nghệ, và đặc biệt là các tiêu chuẩn xanh, tiêu chuẩn ESG. Chính từ yêu cầu ngày càng cao đó, các tập đoàn như CNCTech đã đẩy mạnh việc xây dựng chiến lược nhằm phát triển một hệ sinh thái công nghiệp hoàn chỉnh, đáp ứng đồng bộ những tiêu chuẩn này trong 5–10 năm tới. Trong đó, việc định hướng xây dựng một hệ sinh thái công nghiệp xanh – thông minh được dựa trên bốn nền tảng và hai trụ cột cốt lõi: sản xuất - công nghệ - công nghiệp & logistics.
Từ hướng đi này, bà Dung cho biết, CNCtech phát triển mô hình hạ tầng tích hợp với hơn 24 dịch vụ, đáp ứng trọn vẹn nhu cầu của nhà đầu tư từ chuẩn bị dự án đến vận hành nhà máy. Điều này cho phép các nhà đầu tư FDI rút ngắn thời gian đi vào hoạt động xuống chỉ còn 1–3 tháng.
Bên cạnh đó, bà Nga cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng vào các dự án đầu tư tập trung vào chất lượng và đạt được các chứng chỉ quốc tế cần thiết. Cụ thể, CNCtech đã tập trung vào các nhà xưởng chất lượng cao, phù hợp với các nhà đầu tư trong lĩnh vực linh kiện điện tử. Tuy nhiên, để góp phần hoàn thiện chính sách thu hút FDI thế hệ mới, bà Nga kiến nghị, thứ nhất, quy trình và thủ tục đầu tư cần được số hoá mạnh mẽ hơn. Trên thực tế, mặc dù có định hướng sẽ được số hoá quy trình và đơn giản hoá thủ tục, nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc. Do đó, cần số hoá quy trình và đơn giản hoá thủ tục cấp phép cho chủ đầu tư và nhà đầu tư khi đến Việt Nam. Bà Nga cho rằng cần cụ thể hoá các chính sách, chứ không dừng lại ở việc đinh hướng. Những thủ tục như cấp giấy chứng nhận đầu tư, thành lập doanh nghiệp, xin nghiệm thu phòng cháy chữa cháy… chưa được số hoá và còn nhiều chứng từ yêu cầu cung cấp.
Thứ hai, nguồn nhân lực chất lượng cao cần được quan tâm vì đây là vấn đề quan tâm hàng đầu của các tổ chức, doanh nghiệp FDI lớn.
Thứ ba, để xây dựng KCN sinh thái với hạ tầng toàn diện, cần rất nhiều chi phí, nguồn lực và thời gian. Do đó, bà Nga kiến nghị, cần chính sách hỗ trợ cho các chủ đầu tư trong quá trình phát triển KCN sinh thái mang tính cộng sinh công nghiệp.
Bên cạnh chính sách thu hút các doanh nghiệp công nghệ cao, bà Nga cho rằng cần phải chú trọng chính sách thu hút chuỗi giá trị cho ngành công nghệ cao để doanh nghiệp FDI đến Việt Nam có hệ sinh thái hỗ trợ phù hợp trong các công đoạn sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực bán dẫn. "Cơ hội của Việt Nam trong làn sóng dịch chuyển toàn cầu là rất lớn nhưng cơ hội chỉ trở thành thành quả khi chúng ta chuẩn bị đủ tốt về hạ tầng, thể chế và nguồn nhân lực. Với sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước – doanh nghiệp – nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam có thể trở thành trung tâm công nghiệp và logistics hàng đầu khu vực trong thập kỷ tới" - bà Nga nhấn mạnh.
Phát biểu tại Diễn đàn, trong bối cảnh thu hút nguồn vốn FDI thế hệ mới, các khu công nghiệp (KCN) Việt Nam đứng trước sức ép phải chuyển mình, đó không chỉ là nơi cho thuê đất, mà còn phải trở thành hệ sinh thái dịch vụ, hạ tầng xanh và nền tảng số để đáp ứng yêu cầu khắt khe của nhà đầu tư công nghệ cao.

Tuy nhiên, vẫn còn đó rất nhiều những thách thức, khó khăn mang tính hệ thống đang cản trở bước tiến này. Phát biểu tại Diễn đàn “Hoàn thiện chính sách thu hút làn sóng FDI thế hệ mới vào các khu công nghiệp” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chỉ đạo, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức vào chiều 28/11, ông Trương Khắc Nguyên Minh - Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Prodezi Long An - Chủ đầu tư KCN Prodezi, đã nêu rõ những vấn đề vướng mắc và đề xuất các giải pháp thực tiễn để hiện thực hóa mô hình KCN sinh thái.
Theo ông Minh, một trong những thách thức cơ bản là sự thiếu đồng bộ về khung chính sách và nhận thức giữa các cấp quản lý. Những khái niệm như “KCN sinh thái” hay “cộng sinh công nghiệp” vẫn được hiểu khác nhau, dẫn tới quy trình thẩm định, phê duyệt và cấp chứng nhận thiếu nhất quán. Hệ quả là các chủ đầu tư gặp khó khi muốn đầu tư bài bản vào hạ tầng tuần hoàn, bởi chưa có bộ tiêu chí quốc gia rõ ràng, chưa phổ biến các hướng dẫn quốc tế như của UNIDO (Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc) để chuyển hóa thành quy chuẩn trong nước.
Bên cạnh đó, theo ông Minh, những quy định pháp lý về trao đổi phế phẩm, mua bán chất thải tái chế vẫn còn khe hở và thủ tục rườm rà, khiến hoạt động cộng sinh, tức tận dụng phụ phẩm của doanh nghiệp này làm nguyên liệu cho doanh nghiệp khác, chưa thể phát triển. Thực trạng này càng trở nên trầm trọng khi hệ sinh thái dịch vụ nội địa còn thiếu các nhà cung cấp đạt chuẩn quốc tế. Nhà cung cấp logistics, bảo trì hay vật tư tại địa phương nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu ESG, SLA hay tiêu chuẩn ISO mà nhà đầu tư FDI thế hệ mới đòi hỏi; công cuộc thẩm định và nâng cao năng lực vì thế tốn kém cả về thời gian lẫn chi phí.
Công nghệ và dữ liệu là hai yếu tố then chốt nhưng cũng đặt ra thách thức lớn. Theo ông Minh, đầu tư nền tảng giám sát thông minh (IoT/AI) để quản trị năng lượng, nước và chất thải theo thời gian thực đòi hỏi nguồn lực tài chính đáng kể; đồng thời việc tích hợp dữ liệu vận hành tạo ra rủi ro an ninh mạng, điều khiến doanh nghiệp e ngại khi phải chia sẻ dữ liệu sản xuất nhạy cảm.
.jpg)
Trước những vướng mắc này, đứng ở góc độ của Prodezi, ông Minh đề xuất một loạt giải pháp mang tính đồng bộ và mang chiều sâu chính sách. Theo ông, cần sớm xây dựng Bộ Tiêu chí Quốc gia cho KCN sinh thái, lồng ghép hướng dẫn quốc tế để đảm bảo tính thống nhất trong áp dụng.
Song song đó, Nhà nước nên rà soát, đơn giản hóa thủ tục cho hoạt động trao đổi phế liệu giữa doanh nghiệp; ban hành cơ chế quản trị dữ liệu bắt buộc về chia sẻ chỉ số môi trường đi kèm tiêu chuẩn an ninh mạng để tạo niềm tin. Về nguồn vốn, ông Minh kêu gọi thiết lập cơ chế vốn xanh ưu đãi với quy trình phê duyệt nhanh và lãi suất cạnh tranh, cùng các ưu đãi thuế, đất đai vượt trội dành cho dự án tiên phong.
Trên thực tế, những đề xuất này không chỉ mang tính kỹ thuật mà còn là lời kêu gọi hành động, nếu muốn kéo FDI chất lượng cao đến Việt Nam, phải có chính sách và công cụ tài chính tương xứng để bù đắp chi phí chuyển đổi. Chỉ khi chính sách, công nghệ và thị trường dịch vụ cùng tiến, mô hình KCN sinh thái mới thực sự từ khát vọng trở thành hiện thực.

Thảo luận tại Diễn đàn, Ths, LS Trần Đại Nghĩa – chuyên gia pháp lý dự án đầu tư, CEO Công ty Tư vấn Đầu tư FII Việt Nam cho biết, Việt Nam đang trở thành điểm đến đầu tư trong khu vực nhờ nền tảng hạ tầng tốt, vị trí địa lý thuận lợi. Qua quá trình tư vấn các doanh nghiệp FDI, FIIVN nhận thấy các doanh nghiệp dành nhiều sự quan tâm đến các chính sách ưu đãi thu hút đầu tư. Đồng tình với một số quan điểm trước đó, Ths, LS Trần Đại Nghĩa cho rằng cần quan tâm đến các loại hình đầu tư, nguồn vốn đầu tư hơn là “địa chỉ” đầu tư. Để thu hút FDI, không chỉ cần đầu tư các KCN sinh thái, KCN xanh mà cần đầu tư đồng bộ hệ thống công trình hạ tầng đi kèm để phục vụ các nhu cầu sinh hoạt, giải trí, tập luyện… của đội ngũ chuyên gia cũng như hệ thống nhà ở cho công nhân công nghệ.
Ths, LS Trần Đại Nghĩa kiến nghị, ngay từ trong quy hoạch KCN, cần dành diện tích đất cho nhà ở xã hội. Thời điểm này, tại kỳ họp thứ 10 đang diễn ra, Quốc hội dành thời gian thảo luận Luật Đầu tư (sửa đổi) dự kiến tác động trực tiếp đến thu hút FDI. Theo Ths, LS Trần Đại Nghĩa, hiện nay, các KCN có nhiều cách thu hút nhà đầu tư, đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Theo quy định pháp luật, Việt Nam đã ban hành thủ tục đầu tư đặc biệt cho lĩnh vực công nghệ cao. Quy định này cần áp dụng rộng hơn trong bối cảnh các quy định pháp luật về đầu tư đã cởi mở hơn với doanh nghiệp nhằm rút ngắn thời gian làm thủ tục.

Chia sẻ về việc áp dụng tiêu chuẩn ESG trong KCN để gia tăng sức hút FDI, bà Nguyễn Lê Hằng, Giám đốc Đối ngoại SLP Việt Nam, cho rằng triển khai ESG ngay từ giai đoạn đầu giúp KCN tạo ra lợi thế khác biệt và nâng cao khả năng tiếp cận các nhà đầu tư chất lượng cao. Theo bà Hằng, SLP - đơn vị phát triển và vận hành cơ sở hạ tầng công nghiệp, logistics hiện đại đã lựa chọn tiếp cận ESG như một cam kết cốt lõi. Việc đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn ESG giúp doanh nghiệp thu hút hiệu quả các nhà đầu tư quốc tế, đặc biệt là những tập đoàn yêu cầu cao về chuỗi cung ứng xanh và hạ tầng đạt chuẩn bền vững. Dù lợi nhuận trực tiếp từ đầu tư xanh chưa thể hiện rõ, bà Hằng cho rằng doanh nghiệp nhìn thấy những giá trị dài hạn: khả năng kết nối tốt hơn với khách hàng, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu và nâng cao tính cạnh tranh của KCN.
Bà đánh giá Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách về phát triển bền vững và cam kết mạnh mẽ đến năm 2050. Tuy nhiên, khoảng cách giữa chính sách và triển khai vẫn tồn tại. “Một ví dụ là danh mục dự án xanh được vay ưu đãi dù được công bố, nhưng trong thực tế, các ngân hàng chưa thật sự mặn mà và doanh nghiệp chưa nhận thấy lợi ích ưu đãi rõ rệt” - bà Hằng cho biết và kỳ vọng Chính phủ có những hành động cụ thể hơn để biến chính sách thành hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, bà Hằng cho biết doanh nghiệp có nhu cầu và điều kiện để triển khai các giải pháp năng lượng sạch. Tuy nhiên, do còn tồn tại những vướng mắc giữa quy định và thực tế thực thi, các dự án vẫn gặp khó trong quá trình triển khai. Điều này khiến không chỉ nhà phát triển hạ tầng mà cả các khách thuê, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài ưu tiên sử dụng năng lượng xanh đều bị ảnh hưởng.
Về hạ tầng xanh, bà Hằng cho biết biến đổi khí hậu những năm gần đây tác động rõ rệt đến hoạt động sản xuất, như tình trạng nước dâng và ngập lụt tại một số khu vực. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ đầu tư KCN và chính quyền địa phương để đảm bảo an toàn vận hành, giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp trong hệ sinh thái.
Bà cũng đề cập đến vấn đề tuân thủ các quy định về ESG tại một số địa phương trọng điểm như Bắc Ninh, Hải Phòng, Long An, Đồng Nai. Dù văn bản đã thống nhất, cách triển khai ở từng địa phương vẫn chưa đồng đều, đặc biệt trong các thủ tục liên quan đến PCCC, kiểm định kỹ thuật, khiến hoạt động của doanh nghiệp bị chậm trễ. Bà Hằng kỳ vọng thời gian tới sẽ có thêm các cơ chế đối thoại thường xuyên giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý để tháo gỡ vướng mắc, góp phần nâng cao chất lượng môi trường đầu tư và tăng sức hút của Việt Nam đối với dòng vốn FDI xanh, công nghệ cao.

Ở vai trò của ngành tài chính ngân hàng trong việc thúc đẩy phát triển KCN và thu hút đầu tư FDI thế hệ mới, ông Hiroki Kamijo, Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc khối FDITB VPBank nêu ba vấn đề trọng tâm.
Thứ nhất là tài chính xanh. Hiện có các gói tín dụng ưu đãi cho năng lượng tái tạo, sản xuất tiết kiệm năng lượng, quản lý chất thải bền vững, các sáng kiến kinh tế tuần hoàn và mô hình tòa nhà xanh trong KCN. Đây đều là những giải pháp được các tổ chức tài chính quốc tế hỗ trợ và phù hợp với các tiêu chuẩn ESG toàn cầu. Những chương trình này giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn dễ chịu hơn trong khi vẫn đáp ứng được các yêu cầu về phát triển bền vững ngày càng khắt khe từ các doanh nghiệp châu Âu, Mỹ và Nhật Bản.
Thứ hai là tài chính xã hội, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, bao gồm cả doanh nghiệp do phụ nữ sở hữu và lãnh đạo, cùng với các dự án về đào tạo nhân lực, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, nhà ở giá phải chăng và các hạ tầng thiết yếu như vệ sinh môi trường và nước sạch. Những chương trình này không chỉ mang lại lợi ích cho từng dự án mà còn nâng cao chất lượng phát triển tổng thể của các KCN, phù hợp với tầm nhìn Net Zero 2050 và Chiến lược Tăng trưởng Xanh quốc gia.
Trong năm 2025, ông Hiroki Kamijo cho biết đã huy động thành công 1,3 tỷ USD vốn tài chính bền vững từ các tổ chức tài chính phát triển quốc tế, bao gồm 300 triệu USD trái phiếu bền vững phát hành quốc tế, nâng tổng nguồn vốn bền vững huy động từ năm 2022 đến nay lên gần 3 tỷ USD. Điều này có nghĩa là nếu ngân hàng cấp tín dụng cho các KCN sinh thái, có thể tiếp cận được các khoản vay hai bước với chi phí cạnh tranh từ thị trường quốc tế. Ngoài ra, Moody’s đã xếp hạng điểm tác động tín dụng ESG (ESG Credit Impact Score) ở mức CIS-2, tức VPBank đủ điều kiện để hỗ trợ tốt cho các KCN.

Chia sẻ tại phiên thảo luận, bà Trần Nhị Hà, Phó Giám đốc Ngân hàng Doanh nghiệp LPBank cho rằng, nguồn vốn FDI cùng hệ thống KCN đang đứng trước chu kỳ phát triển mới, đòi hỏi hạ tầng đồng bộ hơn, tiêu chuẩn quốc tế và mức độ cạnh tranh cao hơn. Do đó, để tận dụng cơ hội này bà Hà cho rằng cần một mô hình ngân hàng doanh nghiệp “đủ sâu, đủ rộng và đủ tốc độ”, để cung cấp sản phẩm, đồng thời kiến tạo giá trị với chủ đầu tư và doanh nghiệp FDI.
Bà Hà nhận định, mặc dù khối FDI đóng góp lớn cho xuất khẩu và tăng trưởng, nhưng mức dư nợ ngân hàng dành riêng cho nhóm này vẫn còn khiêm tốn và chưa có báo cáo công khai, toàn diện về mức độ sử dụng dịch vụ ngân hàng trong các KCN.
Từ đó, LPBank xác định trọng tâm chiến lược chuyển từ cung ứng sản phẩm truyền thống sang kiến tạo giải pháp xuyên suốt, tức là tham gia từ giai đoạn thiết kế, triển khai đến vận hành và mở rộng của KCN.
Bên cạnh đó, LPBank cũng cam kết xây dựng nền tảng số hoá quản trị dòng tiền, kết nối ERP, tối ưu hoá quản trị kho - vận hành - thu mua xuyên chuỗi, nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu suất và giảm chi phí tài chính. Đó chính là điểm khác biệt khi ngân hàng không chỉ là nơi cấp vốn, mà còn là đối tác kỹ thuật số giúp doanh nghiệp vận hành suôn sẻ.
Bà Hà cũng nhấn mạnh hai trụ cột chiến lược của LPBank. Thứ nhất là giải pháp tài trợ chuyên sâu, gồm các khoản vay hạ tầng kéo dài tới 10-15 năm và các sản phẩm như UPAS LC hay SBLC cho doanh nghiệp quy mô lớn. Thứ hai là xây dựng nền tảng số hóa dòng tiền nội khu, với cổng thanh toán tập trung và công cụ quản trị ngân quỹ, công nợ, trả lương. Từ đó, giúp mọi doanh nghiệp trong khu được phục vụ bằng một giải pháp tài chính tối ưu.
Cuối cùng, bà Trần Nhị Hà khẳng định rằng KCN và doanh nghiệp FDI là động lực tăng trưởng dài hạn, là cơ hội để ngân hàng gia tăng CASA (tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn), nâng cao chất lượng tài sản và mở rộng thị phần dịch vụ.

Tại phiên thảo luận, ông Đoàn Văn Long - Tổng Giám đốc công ty EPC Solar cho biết, Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã tháo gỡ, khai thông một điểm nghẽn từ thực tế hoạt động tại KCN, tạo điều kiện để FDI tiếp cận nguồn điện giá rẻ, bền vững, điện sạch. Theo tinh thần này, sắp tới Nghị định sửa đổi Nghị định 57/2025 hướng tới cho phép các đơn vị buôn bán lẻ trong khu công nghiệp được quyền mua điện năng lượng tái tạo. Thứ hai, giá trần mua điện tái tạo qua đường dây riêng sẽ được xoá bỏ, thay vào đó, 2 bên thoả thuận nhưng không vượt quá mức giá bán lẻ.
Điểm nghẽn tiếp theo, ông Đoàn Văn Long hy vọng được tháo gỡ sớm là quy định cho phép bán nguồn điện dư từ 20% lên 50% nhằm tránh lãng phí và thúc đẩy đầu tư năng lượng tái tạo. Về vấn đề lưu trữ, ông Đoàn Văn Long cho rằng, lưới điện sẽ khó hấp thu nếu nguồn điện tái tạo tiếp tục được đưa vào lưới nên cần sớm ban hành chính sách lưu trữ. Về giá điện 2 thành phần và quota phân bổ cho các tỉnh, thành theo Quy hoạch 8, qua tìm hiểu, hiện nay một số địa phương đã hết quota và sẽ chuyển dịch theo hình thức không còn quota. Khi áp giá điện 2 thành phần, điện lực sẽ đầu tư vào lưới cần tính đến bài toán chi phí cố định hay thuê bao. Khi đó cho phép mở rộng zoom, nếu không bán điện lên lưới sẽ không cần phải quota, tự cân bằng đầu tư năng lượng tái tạo.

Chia sẻ tại phiên thảo luận, ông Phạm Đoàn Tùng, Chủ tịch Hiệp hội Hỗ trợ Phát triển Công nghiệp Hải Phòng cho rằng nếu không tháo gỡ triệt để các điểm nghẽn, Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy gia công và bỏ lỡ cơ hội từ làn sóng FDI mới trong các lĩnh vực bán dẫn, AI, năng lượng tái tạo. Theo ông Tùng, tỉ lệ nội địa hóa của Việt Nam hiện chỉ khoảng 10%, nghĩa là tới 90% linh kiện - thiết bị phải theo các nhà thầu chính nhập khẩu vào. Con số này thấp hơn rất nhiều so với Trung Quốc (67%), Thái Lan (58%) hay Ấn Độ (53%). Hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ cũng rất mỏng, khi toàn quốc chỉ có khoảng 500 doanh nghiệp được công nhận, tương đương 0,2% tổng số doanh nghiệp và phần lớn mới chỉ đủ năng lực trở thành nhà cung cấp cấp 3 hoặc cấp 4 cho các tập đoàn lớn.
Ông cho biết: “Các tập đoàn đa quốc gia thường dựng hàng rào kỹ thuật khiến doanh nghiệp Việt khó tham gia chuỗi cung ứng, kéo theo việc chuyển giao công nghệ và liên kết giá trị hạn chế. Điều này khiến nền kinh tế dễ tổn thương trước biến động địa chính trị và khó nâng cấp chuỗi giá trị”.
Để tận dụng làn sóng FDI thế hệ mới, ông Tùng kiến nghị Chính phủ chuyển từ tư duy “trải thảm đỏ đại trà” sang chính sách lựa chọn nhà đầu tư có ràng buộc trách nhiệm và đóng góp thực chất đối với phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Ông Tùng đề xuất một số giải pháp trọng tâm: Thứ nhất, áp dụng KPI nội địa hóa gắn với giấy chứng nhận đầu tư, kèm theo lộ trình đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ bắt buộc. Thứ hai, không thu hút dàn trải, mà quy hoạch theo từng vùng - ngành chiến lược như điện tử, AI, công nghệ cao,... nhằm hình thành các cụm liên kết chuyên sâu. Thứ ba, dành ưu đãi về thuế và quỹ đất cho các trung tâm đào tạo nghề, R&D nước ngoài phục vụ nhóm ngành trong vùng quy hoạch. Thứ tư, chính sách FDI phải gắn chặt với chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, hướng đến xây dựng một nền công nghiệp thực sự của quốc gia, tương tự mô hình thành công tại các nước phát triển.

Ông Nguyễn Quốc Khánh, Chủ tịch HĐQT DTJ Group, Liên minh công nghiệp G20 cho biết, thực tế Việt Nam đã và đang thu hút vốn đầu tư nước ngoài tốt và đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, để tăng cường hút vốn FDI chất lượng cao vào các KCN, ông Khánh kiến nghị cần tối ưu nguồn lực đất đai, cũng như xây dựng quy hoach vùng sản xuất để tối ưu cho chuỗi cung ứng. Các nhà đầu tư nước ngoài khi sang Việt Nam cần chuỗi cung ứng nguyên vật liệu nhưng các doanh nghiệp địa phương lại nằm dàn trải, không tập trung, dẫn đến chi phí đắt, sản xuất không hiệu quả. Thuế quan của Mỹ cũng thúc đẩy các doanh nghiệp quốc tế dịch chuyển sang Việt Nam. Cần hài hoà giữa quy hoạch vùng và quy hoạch nguồn nhiên liệu, quy hoạch nhân sự và quy hoạch hệ sinh thái xung quanh là yếu tố cần thiết để tăng hiệu quả sản xuất, cải thiện chi phí. Hiện các tỉnh quy định không tiếp nhận các ngành tái chế.
Tuy nhiên, ông Khánh cho rằng, mỗi 1 tỉnh có khu vực riêng để tái chế các nguồn nguyên liệu, từ đó tối ưu được nguồn lực và vốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Cần xây dựng quy định chuẩn hoá để phân loại doanh nghiệp vào các KCN sinh thái. Với diện tích đất đai hiện nay, ông Khánh cũng kiến nghị cần tối ưu nguồn đất cho những doanh nghiệp thuộc ngành nghề đặc thù cần ưu tiên sự tham gia của các doanh nghiệp FDI. Đồng thời cần quy định có mã số ngành riêng cho từng khu vực, từ đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp địa phương tham gia vào chuỗi cung ứng cho doanh nghiệp FDI.

Phát biểu kết luận Diễn đàn, nhà báo Nguyễn Tiến Dũng – Phó Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp nhấn mạnh, với vai trò của Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tại sự kiện, Tạp chí luôn luôn đón nhận những ý kiến đóng góp của các diễn giả và các doanh nghiệp tham gia. Theo đó, những ý kiến sẽ được Ban tổ chức tổng hợp gửi tới Chính phủ và các bộ, ngành liên quan.