Được sự chỉ đạo của VCCI, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức "Diễn đàn kinh doanh 2025: Giải pháp đột phá hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới" vào chiều 14/8/2025 tại Hà Nội.
Kinh tế Việt Nam đang có sự phát triển ổn định và được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian tới. Nhiều chuyên gia và tổ chức quốc tế đánh giá cao sự phục hồi và phát triển của kinh tế Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu vẫn đối mặt nhiều thách thức như lạm phát, chi phí vận chuyển tăng cao và các rào cản kỹ thuật, nhiều doanh nghiệp đã chủ động điều chỉnh chiến lược, đẩy mạnh tìm kiếm, mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Đây không chỉ là giải pháp để giữ vững đà tăng trưởng, mà còn là hướng đi lâu dài nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu trước biến động kinh tế quốc tế.
Nhằm tạo cơ hội kết nối, trao đổi và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp trong tình hình mới, dưới sự chỉ đạo của VCCI, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức:
DIỄN ĐÀN KINH DOANH 2025: GIẢI PHÁP ĐỘT PHÁ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG MỚI
Thời gian: Từ 13h30 – 17h00, Thứ Năm, ngày 14/08/2025
Địa điểm: Khách sạn du Parc Hà Nội, 84 Trần Nhân Tông, Phường Hai Bà Trưng, Hà Nội
Tham dự Diễn đàn có: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); GS TS Hoàng Văn Cường - Uỷ viên Uỷ ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội; TS Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương; Ông Nguyễn Văn Thân - Đại biểu Quốc hội khóa XV, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam; Ông Nguyễn Hữu Thập - Ủy viên ban chấp hành VCCI, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang; Ông Nguyễn Hải Minh - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham); TS Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam; Ông Phí Ngọc Trình - Tổng Giám đốc Tập đoàn Hồ Gươm; Bà Trần Thị Thu Trang - Chủ tịch HanelPT NextTech, JSC; Ông Nguyễn Tiến Đạt - CEO AZA Travel - Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Hà Nội; Ông Nguyễn Trung Tuyến - Chủ tịch Cộng đồng Doanh nghiệp Giá Tốt Việt Nam; Đại diện các DN, HH DN, Ngân hàng…
Về phía đơn vị Tổ chức và thực hiện Diễn đàn có: Nhà báo Nguyễn Linh Anh, Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp.
Ban tổ chức đặc biệt cảm ơn đại diện các sở ngành, trung tâm xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch các tỉnh Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hưng Yên, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ an… các chuyên gia từ các Viện, trường, cơ quan nghiên cứu, Lãnh đạo các Hiệp hội doanh nghiệp các địa phương, lãnh đạo các doanh nghiệp đã đến tham dự chương trình.
Ban tổ chức cũng xin cảm ơn các nhà báo, phóng viên, biên tập viên các cơ quan thông tấn, báo chí đã tham dự và đưa tin về sự kiện.
Để tổ chức chương trình thành công, Ban Tổ chức xin được gửi lời cảm ơn trân trọng đến sự đồng hành thiết thực của: Tổng Công ty Khí Việt Nam - CTCP (PV GAS); Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng quốc gia Việt Nam (PVN); Tập đoàn GELEXIMCO - Công ty CP; Tập đoàn Nước giải khát Tân Hiệp Phát.
Phát biểu khai mạc, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đánh giá, với những kết quả khá toàn diện đã đạt được trong 7 tháng qua, kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển tăng tốc hướng tới mục tiêu tăng trưởng cả năm đạt 8,3 - 8,5%.
Theo đó, nhiều tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá cao và đưa ra những nhận định dự báo tích cực về tăng trưởng GDP Việt Nam trong năm 2025. Trong đó, các động lực tăng trưởng truyền thống được thúc đẩy là một trong những điểm sáng đáng ghi nhận.
Tổng vốn FDI đăng ký 7 tháng đạt gần 24,1 tỷ USD, tăng 27,3% so với cùng kỳ; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng tăng 9,3% so với cùng kỳ. Đặc biệt, hoạt động xuất nhập khẩu ghi nhận sự vươn lên mạnh mẽ với mức xuất khẩu kỷ lục - 42,26 tỷ USD lần đầu được xác lập trong tháng 7. Con số này góp phần nâng tổng kim ngạch xuất khẩu 7 tháng lên 262,44 tỷ USD, tăng tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước.
“7 tháng qua cũng là thời điểm đặc biệt với nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp. Niềm tin kinh doanh được bồi đắp từ những đổi mới mang tính chất cách mạng. Nhiều chủ trương đường lối với tư duy mới, cách tiếp cận mới được ban hành như "bộ tứ Nghị quyết trụ cột", thực hiện sắp xếp bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính gắn với mô hình chính quyền 2 cấp đã và đang mở đường cho giai đoạn phát triển mới của đất nước, thúc đẩy đưa nguồn vốn từ khu vực tư nhân vào nền kinh tế”, Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh.
Theo đó, 7 tháng qua, đã có trên 174.000 doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường với tổng vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trên 3,3 triệu tỷ đồng, tăng 93,7% so với cùng kỳ và gần 536,2 nghìn hộ kinh doanh thành lập mới, tăng 165%.
Tuy đạt nhiều kết quả ấn tượng trong phát triển kinh tế xã hội nhưng ông Hoàng Quang Phòng nhận định, để cán đính mục tiêu tăng trưởng trên 8%, thách thức cho những tháng còn lại của năm nay không hề nhỏ.
Cụ thể, trên thế giới, tác động từ tình hình địa chính trị ngày càng phức tạp đang làm thay đổi căn bản cấu trúc của kinh tế toàn cầu, tái định hình chuỗi giá trị và thúc đẩy nhanh hơn xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng. Các chính sách thương mại của thị trường lớn càng làm cho gia tăng tính bất định và quá trình phân mảnh kinh tế thế giới. Là nền kinh tế có độ mở lớn, sức chống chịu chưa cao, Việt Nam được dự báo chịu ảnh hưởng nhất định trước những rủi ro gia tăng và bất định của toàn cầu.
Ngay trong tuần đầu tháng 8, mức thuế đối ứng mới của Mỹ được áp dụng với hầu hết các đối tác thương mại, trong đó mức thuế áp dụng với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam là 20%. Diễn biến này sẽ ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại toàn cầu nói chung và đặt ra những thách thức cho xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ cũng gia tăng áp lực cho doanh nghiệp trong nước.
Đặc biệt, trong bối cảnh nhiều thị trường áp dụng hàng rào phi thuế quan, yêu cầu về môi trường, xã hội, quản trị ngày càng khắt khe đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư nguồn lực cho chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, tăng tỷ lệ nội địa hoá đầu vào giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nhằm đáp ứng quy tắc xuất xứ, minh bạch nguồn gốc…
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động, Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng đánh giá, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước áp lực phải đổi mới để duy trì tăng trưởng và cạnh tranh trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
Theo số liệu từ Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2024 đạt hơn 335 tỷ USD, nhưng để duy trì đà tăng trưởng này, doanh nghiệp cần có chiến lược tiếp cận thị trường hiệu quả hơn.
Hiện, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu các ngành nghề chủ lực lẫn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước đều đang xây dựng kế hoạch tìm kiếm các thị trường mới để ứng phó với rủi ro thuế quan, với những bất định của kinh tế toàn cầu.
“Đây được xem là hướng đi chiến lược bền vững và lâu dài khi Việt Nam đã tham gia 17 hiệp định thương mại tự do với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ cùng 70 cơ chế hợp tác song phương. Khai thác hiệu quả dư địa và lợi thế này sẽ giúp các doanh nghiệp đa dạng thị trường xuất khẩu, giảm phụ thuộc vào thị trường lớn nhất”, ông Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh.
Đồng hành và hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện mục tiêu quan trọng trên, tại Nghị quyết số 226/NQ-CP vừa được ban hành, Chính phủ chỉ đạo các bộ ngành chủ động triển khai các giải pháp xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu đối với từng ngành hàng chủ lực, thị trường trọng điểm, thị trường ngách, tiềm năng… trên cơ sở khai thác hiệu quả các hiệp định FTA đã ký kết. Mặt khác, triển khai ngay công tác đàm phán, sớm ký kết FTA mới, nhất là với các nước Trung Đông, Ấn Độ, châu Phi, Mỹ La-tinh, nâng cấp Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN...
Cũng theo Phó Chủ tịch VCCI, tiếp cận và khai thác hiệu quả các thị trường mới gắn liền với quá trình tái cơ cấu các ngành hàng xuất khẩu của nền kinh tế cũng như tái cấu trúc hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá trình chuyển đổi này không dễ dàng, không diễn ra trong ngày một ngày hai.
“Đó là chuyển đổi tư duy sản xuất và đầu tư chiến lược, bài bản cho công nghệ, quản trị nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, gia tăng giá trị sản phẩm. Trên cơ sở đó, nâng cao sức cạnh tranh, khả năng thích ứng, mở rộng cơ hội tiếp cận các thị trường khắt khe của doanh nghiệp cũng như những cạnh tranh gay gắt và khó lường của thương mại đầu tư toàn cầu”, ông Hoàng Quang Phòng chia sẻ.
Ngoài những nỗ lực tự thân, doanh nghiệp cần sự tiếp sức từ Chính phủ, các bộ ngành trong việc xây dựng chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, cơ chế phù hợp phát triển công nghệ hỗ trợ, gia tăng tỷ lệ nội địa hoá.
Bên cạnh đó, lắng nghe tiếng nói từ doanh nghiệp, VCCI nhận được nhiều phản ánh về các quy định pháp luật kinh doanh còn phức tạp, thiếu minh bạch, thiếu đồng bộ và nhiều điểm chưa phù hợp với thực tế gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, ở một số lĩnh vực được khuyến khích đầu tư như năng lượng tái tạo, phát triển khoa học công nghệ… cũng đang có quy định gây khó khăn khiến doanh nghiệp phải cân nhắc thận trọng.
Từ thực tế trên, Phó Chủ tịch VCCI đánh giá cao đề xuất và nội dung của Diễn đàn Kinh doanh 2025 với chủ đề “Giải pháp đột phá hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới” được Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức ngày.
Lãnh đạo VCCI mong muốn các vị Lãnh đạo, đại diện các Bộ ngành, các chuyên gia kinh tế, nhà khoa học, các Hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ thẳng thắn trao đổi, phân tích những tồn tại, thách thức; đề xuất giải pháp cần thực hiện từ phía cơ quan quản lý Nhà nước, địa phương nhằm hoà giải các vướng mắc tồn tại đưa sản phẩm hàng hoá mang thương hiệu Việt vươn xa đến nhiều thị trường mới. Các ý kiến của các quý vị sẽ được VCCI tổng hợp báo cáo Chính phủ cùng các cơ quan liên quan.
Phát biểu tại diễn đàn, TS Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương đã nhấn mạnh vai trò then chốt của các hiệp định thương mại tự do (FTA) trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt với những mặt hàng chủ lực của Việt Nam.
Kể từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã ký kết 17 FTA có hiệu lực với các đối tác quan trọng như ASEAN, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Vương quốc Anh, Australia… Mới đây nhất, năm 2024, Việt Nam và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) đã ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện, hiện đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục để chính thức có hiệu lực. Các cam kết trong các FTA ngày càng mở rộng, không chỉ giới hạn ở việc cắt giảm thuế nhập khẩu hay áp dụng hạn ngạch thuế quan, mà còn bao gồm nhiều lĩnh vực như dệt may, quy tắc xuất xứ, lao động, dịch vụ và đầu tư, mua sắm Chính phủ, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển bền vững và hội tụ phương pháp hoạch định chính sách.
So sánh giữa một số hiệp định tiêu biểu, có thể thấy mỗi FTA mang lại những tác động khác nhau đối với kinh tế Việt Nam. Hiệp định RCEP tập trung vào thuận lợi hóa thương mại với lộ trình tự do hóa thuế quan kéo dài 15-20 năm, dự báo đóng góp từ 0,5% đến 1,0% vào tăng trưởng GDP. CPTPP mở cửa mạnh mẽ hơn, giảm 97%-100% số dòng thuế trong tối đa 11 năm, giúp GDP dự kiến tăng 1,0%-2,0%. EVFTA có mức cam kết sâu rộng, giảm gần như toàn bộ thuế quan trong thời gian từ 0 đến 7 năm, tác động tích cực hơn nữa khi dự kiến nâng GDP thêm 2,0%-3,0%.
TS Nguyễn Văn Hội cho rằng các FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA không chỉ thúc đẩy tự do thương mại hàng hóa và dịch vụ, mà còn bao hàm những lĩnh vực “phi truyền thống” như lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, minh bạch hóa và cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư, đặt ra tiêu chuẩn cao hơn và yêu cầu thực thi chặt chẽ hơn.
TS Nguyễn Văn Hội nhận định: "Các FTA là “đường cao tốc” đưa hàng hóa Việt Nam đến gần hơn với người tiêu dùng toàn cầu. Chúng không chỉ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, mở rộng quy mô và đa dạng hóa thị trường, mà còn giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất nhờ ưu đãi thuế quan". Đồng thời, TS Hội cho rằng, các FTA cũng tạo áp lực để hệ thống chính sách, pháp luật trong nước trở nên minh bạch, thuận lợi và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, đồng thời tạo điều kiện để nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường Việt Nam nhanh chóng hơn.
Năm 2024, Việt Nam đạt GDP 476,3 tỷ USD, đứng thứ 33 thế giới; GDP bình quân đầu người 4.649 USD, xếp thứ 120. FDI đạt 25,35 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia thu hút vốn đầu tư lớn nhất. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 769 tỷ USD, thuộc top 20 toàn cầu; trong đó xuất khẩu đạt 405,53 tỷ USD, đứng hạng 20, nhập khẩu 380,76 tỷ USD, hạng 23. Xuất khẩu nông sản đạt 32,8 tỷ USD, đứng thứ 15 thế giới; xuất khẩu gạo 9,18 triệu tấn, trị giá 5,75 tỷ USD, giữ vị trí thứ 3 toàn cầu. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 6.319 nghìn tỷ USD, chiếm 0,68% toàn cầu; giá trị sản xuất công nghiệp đạt 117,5 tỷ USD, xếp thứ 23 thế giới.
Dù tiềm năng và cơ hội rất lớn, TS Hội cũng chỉ ra nhiều thách thức đang hiện hữu. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện thể chế để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm. Tình trạng phụ thuộc nhiều vào một số thị trường xuất khẩu, phụ thuộc vào khu vực FDI, tỷ trọng thu ngân sách từ thuế xuất nhập khẩu còn cao, thị trường dịch vụ tài chính trong nước chưa phát triển, cùng với trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước cần được nâng lên là những yếu tố cần được giải quyết.
Về giải pháp, đối với Nhà nước, ông đề xuất tập trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nông nghiệp cần được phát triển với các sản phẩm chủ lực, áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc cho nông, thủy sản xuất khẩu. Đồng thời, cần mở rộng thị trường xuất khẩu theo hướng bền vững, tăng cường dự báo, theo dõi và cập nhật thị trường; hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý để tạo thuận lợi thương mại, chống gian lận, huy động hiệu quả nguồn lực, nâng cấp hạ tầng logistics và giảm chi phí vận chuyển.
Với cộng đồng doanh nghiệp, TS Hội cho rằng cần nâng cao vai trò của các hiệp hội ngành hàng trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, phát triển doanh nghiệp tư nhân theo Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, khuyến khích hình thành các doanh nghiệp hạt nhân dẫn dắt chuỗi giá trị xuất khẩu quy mô lớn. Các doanh nghiệp cũng cần được hỗ trợ để vượt qua rào cản thương mại tại các thị trường nước ngoài, đồng thời tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước nhằm lan tỏa lợi ích và thúc đẩy hợp tác.
TS Nguyễn Văn Hội khẳng định, việc tận dụng hiệu quả các FTA đặc biệt tại các thị trường châu Âu, Nhật Bản và Halal sẽ giúp Việt Nam nâng cao vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đưa hàng hóa Việt Nam đến với nhiều thị trường giá trị cao hơn và tạo đòn bẩy cho tăng trưởng bền vững trong những năm tới.
Phát biểu tại diễn đàn, TS Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam đánh giá: nhiều năm qua, hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu có đóng góp lớn cho nền kinh tế.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 ước đạt trên 786,1 tỷ USD góp phần tăng thu ngoại tệ, hỗ trợ tích cực cho cán cân thanh toán, giúp nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế. Số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa năm 2024 là 88,7 nghìn doanh nghiệp, góp phần tạo ra hàng triệu việc làm, sinh kế cho người lao động.
Đặc biệt, theo Giám đốc Economica Việt Nam Lê Duy Bình, thông qua hoạt động xuất nhập khẩu và tham gia tích cực vào 17 FTA đã gia tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Theo Brand Finance, giá trị thương hiệu của Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32 trong số 193 quốc gia được đánh giá, tăng một bậc về thứ hạng và tăng 2% về giá trị so năm 2023. Những chỉ số ấn tượng nói trên đến từ nỗ lực của Chính phủ trong cải cách môi trường đầu tư; đẩy mạnh xuất, nhập khẩu, hỗ trợ phát triển thương hiệu sản phẩm và quyết tâm của doanh nghiệp.
“Thương hiệu của doanh nghiệp Việt có thể được ví như những đại sứ của nền kinh tế Việt Nam ở nước ngoài. Sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam hiện diện ở đâu thì không gian thị trường của nền kinh tế được mở rộng tới đó. Quyền lực mềm và phạm vi ảnh hưởng của nền kinh tế cũng được cảm nhận tới đó” - TS Lê Duy Bình nhấn mạnh.
Thời gian qua, thương hiệu của doanh nghiệp Việt được cải thiện một cách rõ rệt. Sự cải thiện này không chỉ được thể hiện ở các doanh nghiệp đạt thương hiệu quốc gia mà ở hàng trăm nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ khác đang hàng ngày, hàng giờ kiên trì xây dựng thương hiệu, đưa hàng hóa dịch vụ của mình đến các thị trường trên thế giới.
Mặc dù đạt thành công ấn tượng song theo ông Bình tình hình thực tế cho thấy, trên thế giới biến động ngày càng phức tạp của kinh tế toàn cầu, các thách thức trong hoạt động thương mại quốc tế trong thời gian vừa qua như các vụ kiện chống phá giá, rủi ro về thuế như thuế đối ứng… Ở trong nước, cũng như yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế, mục tiêu tăng trưởng cao, bền vững, và yêu cầu phải thay đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu, cách thức tiếp cận thị trường, đòi hỏi tư duy mới của các cơ quan quản lý và vai trò tiên phong của doanh nghiệp.
Từ năm 2015 đến nay, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu duy trì ở mức cao, trong đó có nhiều năm duy trì tốc độ tăng trưởng hai con số, đóng góp rất lớn cho tăng trưởng chung ở nền kinh tế. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách thẳng thắn, từ góc độ kinh tế học, TS Lê Duy Binh cho rằng, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có nhiều thay đổi như hiện nay, câu hỏi lớn đặt ra. Đó là liệu có thể duy trì kim ngạch xuất khẩu cao như thời gian trước đây ở mức từ 10-15% để hỗ trợ tăng trưởng GDP từ 8% trở lên trong 1-2 thập kỷ tới hay không, nhất là khi lợi thế về lao động, chi phí thấp không còn phát huy…
“Bối cảnh mới chúng ta cần thay đổi tư duy, không phải tăng về kim ngạch xuất khẩu mà chất lượng, giá trị gia tăng, tỷ lệ nội địa hóa của hàng xuất khẩu. Với tư duy này, thay vì đặt ra mục tiêu xuất khẩu gắn với những con số cụ thể mà căn cứ vào những tiêu chí khác như giá trị gia tăng, tỷ lệ nội địa hóa… sẽ mang ý nghĩa định hướng lớn hơn rất nhiều cho nền kinh tế, các cơ quan quản lý, cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam” - TS Lê Duy Bình chia sẻ.
Với tư duy và cách tiếp cận mới, các hoạt động xuất khẩu đóng góp nhiều hơn cho tăng trưởng GDP khi nền kinh tế tăng về chất lượng, giá trị gia tăng hàng hoá xuất khẩu, đồng thời khắc phục tình trạng nhập khẩu để chế biến và xuất khẩu. Hiện, doanh nghiệp trong nước và cả doanh nghiệp FDI phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu nguyên vật liệu, các sản phẩm trung gian, máy móc thiết bị sản xuất.
Chẳng hạn, khu vực FDI đóng góp 100% giá trị xuất khẩu điện thoại và linh kiện nhưng lại nhập khẩu tới 89% giá trị linh kiện đầu vào. Báo cáo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) cũng chỉ ra rằng tỷ lệ nội địa hóa của ngành dệt may Việt Nam vẫn chỉ dao động quanh mức 45-50%. Điều này đồng nghĩa với việc hơn một nửa nguyên phụ liệu, đặc biệt là vải và sợi, vẫn phải nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và các quốc gia khác.
Vai trò của doanh nghiệp, theo TS Lê Duy Bình cần chiếm tỷ trọng cao hơn trong hoạt động xuất khẩu. Hiện nay, doanh nghiệp FDI đóng góp lớn, giai đoạn từ 2018 - 2024, xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp này luôn chiếm tới trên 70% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Doanh nghiệp trong nước cần tiên phong thay đổi, gia tăng đóng góp trực tiếp vào xuất khẩu.
Bên cạnh đó, cần lưu tâm nhiều hơn đến xuất nhập khẩu dịch vụ, từ năm 2015 đến nay, Việt Nam nhập siêu dịch vụ, làm giảm bớt ý nghĩa xuất siêu hàng hoá nhìn từ góc độ đóng góp cho tổng cầu. Tất nhiên, doanh nghiệp trong nước có nhiều hạn chế trong ngành hàng hỗ trợ cho nền kinh tế như giao thông vận tải, bảo hiểm, các dịch vụ liên quan đến y tế, giáo dục, du lịch, ngân hàng.
Điều phối phiên thảo luận, ông Nguyễn Văn Thân - Đại biểu Quốc hội khoá XV, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cho rằng, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang có những biến động khó lường, nhu cầu tìm kiếm thị trường mới trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Doanh nghiệp Việt Nam không chỉ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ quốc tế, mà còn chịu áp lực phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng, môi trường, lao động và trách nhiệm xã hội.
Điều hành phiên thảo luận, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đề nghị các doanh nghiệp tập trung kiến nghị những vướng mắc, “hiến kế” để đưa ra giải pháp thiết thực cho cộng đồng doanh nghiệp.
Tại phiên thảo luận, ông Nguyễn Hải Minh – Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (Eurocham) đã chia sẻ góc nhìn từ các doanh nghiệp EU vào Việt Nam trong bối cảnh đổi mới nhiều biến động. Ông Minh cho biết, dù đã có nhiều thoả thuận và Mỹ đã chính thức áp mức thuế nhập khẩu 15% với hàng hóa từ EU, nhiều tập đoàn lớn của EU vẫn đang loay hoay và chịu nhiều áp lực từ chính sách thuế quan. Trong bối cảnh đó, mức thuế 20% với Việt Nam vẫn được đánh giá là khả quan.
Mặt khác, ông Minh cũng khẳng định rằng, Việt Nam đang nổi lên nhanh chóng trong thời gian gần đây, trở thành điểm đến hàng đầu của nhiều nhà đầu tư EU. Lợi thế thuế quan thương mại, cùng việc tham gia các hiệp định như EVFTA, tạo nền tảng vững chắc cho hợp tác kinh tế hai bên. Bên cạnh đó, từ nay đến cuối năm, nhiều chuyến thăm cấp cao sẽ được tổ chức, nhấn mạnh quyết tâm thúc đẩy quan hệ Việt Nam – EU.
Phó Chủ tịch Eurocham cũng cho biết, Việt Nam đang triển khai mạnh mẽ các cải cách với “bộ tứ trụ cột”, hứa hẹn tạo tác động tích cực đến môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, những “nút thắt” về hạ tầng và nguồn nhân lực vẫn cần được cải thiện, trong khi một số quy định của luật thương mại đang hạn chế sự phát triển. Xu hướng đầu tư vào các trung tâm logistics, công nghệ cao được dự báo sẽ gia tăng, nhưng doanh nghiệp EU vẫn gặp khó khi tiếp cận thị trường do vướng mắc về thủ tục và quy định. Mới đây, Việt Nam đã thí điểm mô hình khu thương mại tự do – nếu được nhân rộng và triển khai hiệu quả, đây sẽ là đòn bẩy thu hút mạnh mẽ hơn nữa doanh nghiệp châu Âu. Hoạt động thương mại song phương cũng sôi động với nhiều đoàn công tác từ châu Âu sang Việt Nam tìm kiếm cơ hội hợp tác, mong muốn tăng nhập khẩu hàng hóa Việt Nam.
Nhấn mạnh tới vấn đề phát triển bền vững là xu hướng không thể thay đổi trong thời gian tới, ông Nguyễn Hải Minh thông tin, chính sách của EU cho thấy sự đồng điệu với định hướng của Việt Nam. EU đang điều chỉnh điều kiện nhằm giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng thích nghi, đặc biệt là các nhà cung ứng trong chuỗi đáp ứng tiêu chuẩn ESG và môi trường. Đây là thời điểm thuận lợi để Việt Nam đầu tư vào công nghệ sạch, hướng tới xây dựng chuỗi cung ứng xanh và bền vững.
Về tính phát triển bền vững, chính sách của EU phản ánh rõ tầm nhìn dài hạn và định hướng phù hợp với chiến lược phát triển của Việt Nam. Phía EU khẳng định mong muốn đồng hành, hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi xanh, đặc biệt là nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Hiện, EU đang điều chỉnh một số điều kiện mới để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thích nghi tốt hơn, nhất là những nhà cung ứng trong chuỗi sản xuất đáp ứng tiêu chuẩn ESG, tiêu chuẩn môi trường và yêu cầu minh bạch. Đây là thời điểm then chốt để Việt Nam đầu tư mạnh vào công nghệ sạch, xây dựng chuỗi cung ứng xanh, bền vững và hội nhập sâu vào thị trường châu Âu.
Phó Chủ tịch Eurocham bày tỏ kỳ vọng EU sẽ tiếp tục đồng hành cùng các doanh nghiệp Việt Nam trong việc nâng cao tiêu chuẩn quản trị, cải thiện năng lực đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe từ đối tác. Với 20 tiểu bang và hàng loạt ngành nghề thế mạnh, EU coi Việt Nam là đối tác đầy tiềm năng, đồng thời khuyến khích cộng đồng doanh nghiệp hai bên tăng cường kết nối để mở rộng cơ hội hợp tác và khai thác hiệu quả hơn nữa thị trường chung châu Âu.
Chia sẻ tại phiên thảo luận, GS TS Hoàng Văn Cường - Uỷ viên Uỷ ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội cho biết, trong bối cảnh chiến tranh thương mại vẫn căng thẳng nhưng cơ hội vẫn rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Phải huy động tiềm năng từ các cơ hội xuất khẩu cho doanh nghiệp để hiện thực mục tiêu sản xuất kinh doanh cũng như tăng trưởng.
Thực tế hiện nay doanh nghiệp trong nước vẫn đang cạnh tranh từ nguyên liệu đến thị trường. Nhưng nếu doanh nghiệp cùng “bắt tay nhau” thì sẽ khác. Một trong những giải pháp đưa ra để thực hiện được điều này là rất cần là sự chủ động hỗ trợ của các Hiệp hội doanh nghiệp để tạo mối liên kết, hệ sinh thái chuỗi cung ứng giữa các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tìm ra những doanh nghiệp “đầu đàn” đóng vai trò dẫn dắt chuỗi cung ứng và Nhà nước có cơ chế hỗ trợ những doanh nghiệp này, tạo liên kết giữa các doanh nghiệp lớn – nhỏ. Nhà nước cũng đồng thời hỗ trợ ký kết các Hiệp định mở rộng các thị trường.
Theo GS TS Hoàng Văn Cường, hiện nay để giúp doanh nghiệp đặt chân vào các thị trường từ các Hiệp định đã ký kết thì vẫn thiếu những kế hoạch xúc tiến chiến lược, thực hiện đẩy mạnh thông tin về thị trường của từng ngành, từng nhóm sản phẩm tới các doanh nghiệp. Ông Cường cũng lưu ý tới việc hoàn thiện hệ thống hạ tầng phục vụ các yếu tố xuất khẩu, dịch vụ bổ trợ; tăng cường liên kết các doanh nghiệp không chỉ nội địa mà các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp tiêu thụ nước ngoài.
Ông Ngô Sỹ Hoài - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam cho rằng, với ngành gỗ chỉ cần làm mới thị trường cũ đã mang lại nhiều cơ hội gia tăng giá trị xuất khẩu cho doanh nghiệp.
Đồ gỗ Việt Nam đang xuất khẩu đến hơn 160 thị trường trên thế giới, trong đó Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Trung Quốc là top 5 thị trường chiếm đến hơn 90% sản lượng xuất khẩu. Hiện nay, 55% sản lượng gỗ xuất khẩu sang Mỹ.
Thuế xuất khẩu đồ gỗ nước ta vào Mỹ khoảng 20%, thấp hơn so với một số quốc gia cạnh tranh. Do đó, đây không phải là vấn đề đáng lo ngại vì chính là nhu cầu của thị trường Mỹ giảm do giá bán có thể tăng.
Từ góc độ doanh nghiệp, với khoảng 9 tỷ USD xuất khẩu gỗ vào Mỹ nhưng con số này bằng từ 38-40% tổng kim ngạch nhập khẩu gỗ nội thất của Mỹ. Với tỷ lệ áp đảo như vậy, những “cơn nóng lạnh” của thị trường Mỹ sẽ tác động đến các doanh nghiệp Việt Nam.
Ông Hoài cho rằng, thời điểm này cũng là cơ hội để doanh nghiệp gỗ trong nước nhìn lại mình để tìm kiếm cơ hội tăng trưởng mới ở thị trường truyền thống. Tuy nhiên, để làm được như vậy, một doanh nghiệp đơn lẻ khó thực hiện mà cần liên kết doanh nghiệp thành một nhóm đủ mạnh.
"Chúng tôi đã có một nhóm doanh nghiệp đang đặt vấn đề nghiêm túc để triển khai chủ trương này. Năm nay, các doanh nghiệp gỗ đã tăng nhập khẩu gỗ từ Mỹ lên 600 triệu USD. Ngoài thị trường Mỹ, thị trường Nhật Bản hiện chỉ nhập khẩu dăm gỗ nhưng chúng ta hoàn toàn có thể gia tăng xuất khẩu vào thị trường này các sản phẩm gỗ nội thất mà người tiêu dùng Nhật Bản đang có nhu cầu". - ông Hoài nói.
Ông Nguyễn Hữu Thập - Ủy viên Ban Chấp hành VCCI, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang cho rằng doanh nghiệp địa phương cần tập trung vào năm “chìa khóa” để mở rộng thị trường và nâng sức cạnh tranh.
Trước hết là liên kết cụm ngành và chuỗi cung ứng, tham gia sâu vào các cụm ngành liên tỉnh từ nông - lâm sản, du lịch sinh thái, vật liệu đến công nghiệp hỗ trợ. Doanh nghiệp cần chuẩn hóa tiêu chuẩn, chia sẻ đơn hàng, sử dụng chung dịch vụ kiểm định, logistics và xúc tiến thương mại.
Thứ hai là kết nối hạ tầng, logistics và số hóa, coi hạ tầng giao thông và hạ tầng số là “mặt bằng cạnh tranh mới”. Doanh nghiệp tận dụng nền tảng số để đặt chỗ kho vận, tối ưu vận tải, truy xuất nguồn gốc, trong khi chính quyền cung cấp dữ liệu mở về quy hoạch, quỹ đất và thủ tục.
Chìa khóa thứ ba là tài chính cho chuỗi, chuyển từ vay đơn lẻ sang gói tín dụng chuỗi và bảo lãnh theo đơn hàng liên kết vùng để giảm rủi ro và điều kiện vay phù hợp hơn.
Thứ tư là nhân lực và công nghệ, đặc biệt là AI, nhằm nâng cao quản trị, bán hàng, tiếp thị số, ứng dụng AI vào chăm sóc khách hàng, dự báo nhu cầu và tối ưu tồn kho.
Cuối cùng là thể chế thuận lợi, thủ tục tinh gọn theo cơ chế “một cửa - một chuẩn - một lần khai”, đưa tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân vào từng quy trình phục vụ nhà đầu tư.
Để hiện thực hóa, Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang cam kết ba hành động: lập Trung tâm Kết nối Nguồn lực & Cơ hội đầu tư để hỗ trợ tìm đối tác, vốn, công nghệ và chuẩn hóa hồ sơ; phát hành “Bản đồ cơ hội Tuyên Quang – Vùng mở” dưới dạng điện tử, cập nhật hàng quý, công khai dự án kêu gọi hợp tác và nhu cầu mua – bán; vận hành Tổ công tác 48 giờ tiếp nhận, xử lý và chuyển ngay vướng mắc của doanh nghiệp tới cơ quan chức năng, bảo đảm có phản hồi bước đầu trong 48 giờ làm việc.
Ông Thập đề nghị các cơ quan quản lý tiếp tục đơn giản hóa thủ tục, ban hành hướng dẫn rõ, ngắn, thống nhất, đồng thời mở dữ liệu quy hoạch và thủ tục để doanh nghiệp tra cứu nhanh. Các tổ chức tín dụng và dịch vụ cần thiết kế gói nhỏ, chi phí thấp hỗ trợ doanh nghiệp số hóa từng phần. Các hiệp hội và địa phương khác nên chia sẻ nhu cầu - nguồn cung theo cụm ngành để doanh nghiệp hai bên nhanh chóng hợp tác trên nền tảng số.
Ông khẳng định, nếu các bên cùng cam kết và phối hợp, năm “chìa khóa” này sẽ giúp doanh nghiệp Tuyên Quang mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo sức bật cho toàn vùng.
Đại diện cho ngành dệt may, ông Phí Ngọc Trịnh – Tổng Giám đốc Tập đoàn Hồ Gươm đã phân tích bức tranh xuất khẩu dệt may Việt Nam và đưa ra loạt đề xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 44 tỷ USD, tăng 11% so với 2023. Sáu tháng đầu năm 2025, ngành đạt trên 22 tỷ USD, riêng quý I đạt 8,6 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ. Dù mở đầu năm đầy tích cực, từ giữa quý III lượng đơn hàng sụt giảm mạnh, đặc biệt quý IV khan hiếm do ảnh hưởng thuế quan và tính mùa vụ.
Theo dự báo, xuất khẩu cả năm 2025 vẫn có thể tăng 10% so với 2024, đạt 47–48 tỷ USD, song ngành đang đối diện hàng loạt thách thức: cạnh tranh giá gay gắt, yêu cầu tiêu chuẩn xanh, biến động kinh tế – chính trị toàn cầu, phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu, rào cản thương mại, hạn chế công nghệ, nhu cầu thị trường thay đổi và thiếu hụt nhân lực kỹ thuật cao.
Để đối mặt với các thách thức trên, ông Phí Ngọc Trịnh khẳng định các doanh nghiệp trong ngành may mặc cần phải tích cực tìm kiếm và đầu tư vào các giải pháp thích hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Cụ thể, ông Trịnh đã đề xuất 5 giải pháp khắc phục khó khăn trước những thách thức đã nêu trong xuất khẩu của ngành may mặc Việt Nam.
Đầu tiên, ông Trịnh cho rằng, ngành may mặc Việt Nam đang quá phụ thuộc vào các thị trường chính như Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Để giảm thiểu tác động của bất kỳ suy thoái kinh tế tiềm năng hoặc thay đổi chính sách thương mại, thuế quan ngành công nghiệp dệt may nên khám phá các thị trường mới, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và tăng mức độ hiện diện của mình trong các nền kinh tế mới như Nga, Braxin, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thổ Nhì Kỳ.
Thứ hai, để cạnh tranh với các nước khác trên thị trường may mặc, Việt Nam cần tập trung vào việc phát triển sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm hiện có. Điều này có thể đạt được thông qua nghiên cứu và phát triển, đầu tư vào công nghệ và hợp tác chiều sâu để bắt kịp và dự đoán được xu hướng của ngành thời trang quốc tế.
Kiến nghị về giải pháp cho doanh nghiệp nâng cao năng lực nội tại, mở rộng sản xuất, bà Trần Thị Thu Trang, Chủ tịch Hanel PT NextTech., JSC nhận định, cần mở rộng đàm phán FTA thế hệ mới với các khối tiềm năng như MERCOSUR (Nam Mỹ) và GCC (Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh) để giảm thuế quan, mở rộng cánh cửa vào những thị trường có sức mua lớn nhưng còn ít cạnh tranh. Cùng với đó, thành lập Quỹ bảo hiểm rủi ro thương mại quốc tế theo mô hình công – tư.
Ví dụ mô hình này ở các nước, bà Trang cho biết, hiện Nhật Bản có NEXI (Nippon Export and Investment Insurance) bảo hiểm cho doanh nghiệp khi đối tác phá sản, không thanh toán, hoặc gặp rủi ro chính trị ở hơn 100 thị trường. EU có Euler Hermes/Allianz Trade bảo hiểm xuất khẩu cho doanh nghiệp ở hơn 50 quốc gia, kết hợp dữ liệu rủi ro toàn cầu và hỗ trợ bồi thường 80–90% tổn thất.
Cơ chế hoạt động của Quỹ bảo hiểm rủi ro thương mại quốc tế là doanh nghiệp đóng phí bảo hiểm (0,5–1% giá trị hợp đồng) khi rủi ro xảy ra, quỹ bồi thường phần lớn thiệt hại. Nhà nước hỗ trợ một phần phí cho doanh nghiệp SME khi mở thị trường mới, giúp doanh nghiệp yên tâm khai phá thị trường rủi ro cao mà không lo mất vốn, tăng tốc mở rộng xuất khẩu.
Chủ tịch Hanel PT NextTech cũng đề xuất đầu tư hạ tầng logistics thông minh, kho trung chuyển quốc tế tại Rotterdam (EU), Dubai (Trung Đông), Singapore (ASEAN) để giảm 30 - 40% thời gian giao hàng, tối ưu chi phí và nâng khả năng cạnh tranh.
Đặc biệt, theo bà Trang cần phải đào tạo đội ngũ Sale các công ty có chứng nhận cấp bậc 3-5 sao: Global Trade Professional – Chuyên gia thương mại toàn cầu. Tạo ra nghề chuyên gia đi sale toàn cầu theo từng khu vực xuất khẩu. Theo bà Trang, phải đẩy mạnh đào tạo nhân lực quốc tế hóa, am hiểu thương mại số, tiêu chuẩn xanh và văn hóa địa phương.
“Mở thị trường mới không chỉ là bán hàng sang một quốc gia khác, mà là kiến tạo một hệ sinh thái niềm tin với 5 trụ cột là sản phẩm chuẩn; thương hiệu mạnh; tiêu chuẩn quốc tế; câu chuyện truyền cảm hứng; dịch vụ hậu mãi vượt mong đợi. Nếu Chính phủ, hiệp hội và doanh nghiệp đồng hành, Việt Nam hoàn toàn có thể không chỉ bắt kịp mà còn dẫn dắt nhiều thị trường mới trên thế giới”, bà Trần Thị Thu Trang nhấn mạnh.
ThS Nguyễn Tiến Đạt - Giám đốc Công ty Du lịch AZA, Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Hà Nội đã chia sẻ những góc nhìn về vai trò của chuyển đổi số như một “đòn bẩy chiến lược” giúp du lịch Việt Nam chinh phục các thị trường mới.
Ông Đạt dẫn số liệu năm 2024, ngành du lịch Việt Nam ghi nhận 110 triệu lượt khách nội địa, 17,5 triệu lượt khách quốc tế, tăng gần 39% so với 2023 và doanh thu khoảng 850.000 tỷ đồng. Năm 2025, mục tiêu đặt ra là đón 22-23 triệu lượt khách quốc tế. Riêng 7 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã đón 12,23 triệu lượt khách quốc tế, tăng 22,5% so với cùng kỳ; doanh thu du lịch đạt 52,8 nghìn tỷ đồng, tăng 20%.
Theo ông Đạt, trước đây du lịch Việt Nam chủ yếu khai thác tài nguyên thiên nhiên ở dạng thô như biển, rừng, cùng lợi thế ẩm thực ngon và giá rẻ, nên chủ yếu thu hút nhóm khách thu nhập thấp. Tuy nhiên, xu hướng du lịch toàn cầu đã thay đổi, đòi hỏi sản phẩm và dịch vụ phải hiện đại, tiện ích và minh bạch hơn.
Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số không chỉ là một trào lưu mà trở thành công cụ then chốt để nâng cấp toàn bộ quy trình từ quảng bá, đặt dịch vụ, thanh toán, đến quản lý và chăm sóc khách hàng, qua đó tiếp cận hiệu quả hơn các nhóm khách quốc tế ở những thị trường phát triển. Tuy nhiên, quá trình này vẫn gặp không ít rào cản. Nhiều doanh nghiệp du lịch Việt Nam là vừa và nhỏ, khó khăn về vốn để tiếp cận công nghệ tiên tiến; nhân lực số còn thiếu; dữ liệu du lịch giữa các địa phương bị phân mảnh; khung pháp lý cho các dịch vụ số như chatbot, thực tế ảo/thực tế tăng cường (VR/AR), OTA nội địa chưa hoàn thiện.
Để khắc phục, ông Đạt đề xuất xây dựng nền tảng du lịch số quốc gia kết nối dữ liệu từ trung ương đến địa phương và doanh nghiệp; ứng dụng công nghệ 4.0 như chatbot đa ngôn ngữ, trải nghiệm thực tế ảo/tăng cường, thẻ du lịch thông minh không tiền mặt; tổ chức đào tạo kỹ năng số cho hướng dẫn viên, nhân viên khách sạn, điều hành tour; thành lập quỹ hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; đẩy mạnh quảng bá trên đa nền tảng, hợp tác với tổ chức quốc tế để chia sẻ dữ liệu và chuyển giao công nghệ.
ThS Nguyễn Tiến Đạt nhấn mạnh chuyển đổi số sẽ tái định hình cách ngành du lịch vận hành, tạo nền tảng để Việt Nam bứt phá, thu hút ngoại tệ và khẳng định vị thế trên bản đồ du lịch toàn cầu.
Chia sẻ tại Diễn đàn, bà Nguyễn Thị Huyền - Giám đốc công ty CP sản xuất và xuất khẩu Quế hồi Việt Nam cho biết, hiện nay, công ty đang liên kết 3000 hộ nông dân tại một số tỉnh miền núi phía Bắc và sở hữu hơn 6000 ha đạt chứng nhận hữu cơ. Việt Nam có nhiều lợi thế và cơ hội xuất khẩu các sản phẩm quế hồi khi là một trong 2 quốc gia trên thế giới canh tác hồi và một trong 6 nước canh tác quế. Tuy có sản lượng lớn nhưng nhiều năm trước đây, Việt Nam chưa có tên trên bản đồ xuất khẩu quế hồi.
Bà Nguyễn Thị Huyền chia sẻ, 13 năm trước, công ty CP sản xuất và xuất khẩu Quế hồi Việt Nam thực hiện chuyển đổi mô hình xuất khẩu và tìm kiếm các thị trường mới. Để thực hiện việc chuyển đổi này, công ty đã quay về Việt Nam, xây dựng mô hình kinh doanh chuỗi giá trị thông qua việc hợp tác với nông dân. Do bà con canh tác và hợp tác theo tập quán cũ nên công ty gặp nhiều khó khăn và mất nhiều thời gian để củng cố niềm tin. Hiện nay, công ty đạt 16 chứng nhận quốc tế cho các sản phẩm xuất khẩu.
Từ thực tế của mình, công ty mong muốn các cơ quan chức năng và Chính phủ tạo điều kiện cho tổ chức chứng nhận quốc tế thành lập tại Việt Nam, góp phần tạo điều kiện, giúp đỡ cho doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi, tiết kiệm chi phí chứng nhận. Khi chuyển đổi mô hình kinh doanh, công ty tập trung vào thị trường cao cấp. Ngoài việc đảm bảo yêu cầu chất lượng, công ty phải đảm bảo yêu cầu minh bạch xuất xứ thông qua hệ thống truy xuất nguồn gốc.
Hiện nay, Việt Nam tuy đã có phần mềm truy xuất nguồn gốc nhưng chưa đáp ứng yêu cầu nên doanh nghiệp kiến nghị các cơ quan chức năng hỗ trợ phần mềm truy xuất hiệu quả với đầy đủ thông tin thể hiện, giúp doanh nghiệp kiểm soát chất lượng.
Bà Nguyễn Thị Huyền cho biết thêm, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay có mong muốn thành lập văn phòng đại diện và chi nhánh tại thị trường mục tiêu nhưng thủ tục xin cấp phép đầu tư nước ngoài mất rất nhiều thời gian. Doanh nghiệp mong muốn các cơ quan chức năng hỗ trợ cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận tiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất
Ông Nguyễn Trung Tuyến - Chủ tịch Cộng đồng Doanh nghiệp Giá tốt Việt Nam nhấn mạnh: bức tranh kinh tế toàn cầu 2025 biến động nhanh và khốc liệt, cơ hội xuất hiện nhưng cũng có thể khép lại nếu doanh nghiệp không đủ tốc độ và sáng tạo.
Với hơn 97% doanh nghiệp Việt là vừa và nhỏ, lực lượng này giữ vai trò xương sống của nền kinh tế nhưng phần lớn vẫn đơn độc, thiếu nguồn lực và thị trường. Chính vì vậy, Cộng đồng Doanh nghiệp Giá tốt Việt Nam được thành lập nhằm kết nối, hỗ trợ và cùng nhau quảng bá sản phẩm Việt, hoạt động không vì lợi nhuận mà hướng tới giá trị bền vững.
Trong thời gian qua, cộng đồng đã triển khai nhiều giải pháp hiệu quả để phát triển mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp trong cộng đồng Giá tốt Việt Nam: thúc đẩy tiêu dùng nội địa với giá trị trao đổi lên tới hàng ngàn tỷ đồng; ứng dụng chuyển đổi số để giảm chi phí, tiếp cận trực tiếp người tiêu dùng và mở rộng kênh phân phối B2B; nâng cao nhận diện hàng Việt, hỗ trợ doanh nghiệp thích ứng tiêu chuẩn quốc tế; quảng bá và ưu đãi để gia tăng tổng cầu trong nước; phát triển sản phẩm cạnh tranh thay thế hàng nhập khẩu, gắn với chất lượng, trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường; mở rộng kênh phân phối qua hợp tác với chuỗi bán lẻ; liên kết với các cộng đồng doanh nghiệp khác để chia sẻ cơ hội; đào tạo nhân sự, tối ưu quy trình sản xuất, đầu tư R&D cải tiến sản phẩm.
Ông Tuyến khẳng định, Việt Nam chỉ thật sự lớn mạnh khi doanh nghiệp Việt gắn bó, tin tưởng và nâng đỡ nhau, và Cộng đồng Doanh nghiệp Giá tốt chính là nhịp cầu của sự gắn kết ấy.
Phát biểu kết luận Diễn đàn, Phó Chủ tịch VCCI ông Hoàng Quang Phòng đánh giá: sau một buổi chiều làm việc nghiêm túc, Diễn đàn Kinh doanh 2025 đã nhận được nhiều ý kiến phát biểu cởi mở, thẳng thắn, tâm huyết, trách nhiệm của đại diện cơ quan chức năng, các chuyên gia, các nhà khoa học, đại diện các hiệp hội và doanh nghiệp.
Các ý kiến không chỉ đề cập đến thực trạng, khó khăn, vướng mắc mà còn đưa ra những cảnh báo hệ luỵ, rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải khi tiếp cận, mở rộng thị trường mới; những đề xuất kiến nghị giải pháp cụ thể. Các ý kiến được phát biểu tại diễn đàn sẽ được Ban Tổ chức tổng hợp đầy đủ, truyền tải vào báo cáo chung của VCCI gửi Chính phủ và các cơ quan chức năng, qua đó tháo gỡ điểm nghẽn, tìm kiếm giải pháp đột phá hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận và mở rộng thị trường mới, đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu của doanh nghiệp và nền kinh tế.