Cơ hội để "xốc lại" tinh thần tái cơ cấu trong DNNN, nhằm đẩy "cỗ xe" DNNN lăn bánh, chuyển động nhanh và đầy sức sống như các thành phần kinh tế khác.
>>>2025 - Đích đến cơ bản hoàn thành việc sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu khối DNNN
Ngày 24/3, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc của Thủ tướng Chính phủ với DNNN có chủ đề trọng tâm là "Tiếp tục đổi mới, nâng cao hoạt động nhằm huy động nguồn lực của doanh nghiệp Nhà nước trong phát triển kinh tế-xã hội".
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước được Đảng, Nhà nước rất quan tâm và được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cấp, các ngành, các địa phương và của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước được xác định giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Điều này đã được thể hiện trong các chủ trương, nghị quyết, chương trình, văn bản của Đảng, Quốc hội, Chính phủ.
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước cũng xác định:
“Doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, đẩy nhanh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế; bảo đảm doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước”.
Với những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng, nhất là trong hơn 35 năm đổi mới, cộng đồng doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng đã nỗ lực không ngừng, vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục nỗ lực vươn lên góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để “đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay” mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã báo cáo tại Đại hội XIII của Đảng vừa qua.
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, doanh nghiệp nhà nước luôn đồng hành và giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế nhiều thành phần, doanh nghiệp nhà nước luôn giữ vững vai trò quan trọng, then chốt và là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
"Tuy nhiên, khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thể hiện tốt vị thế của mình, chưa phát huy được lợi thế về nắm giữ nguồn lực trong thực hiện sứ mệnh của mình", Thủ tướng nhấn mạnh.
Chỉ riêng các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đang nắm giữ, mặc dù chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong nền kinh tế (khoảng 0,08% số doanh nghiệp hoạt động tại thời điểm 31/12/2020) nhưng lại nắm giữ nguồn lực lớn của nền kinh tế (khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của toàn bộ doanh nghiệp trên thị trường, chiếm khoảng 25,78% tổng vốn sản xuất, kinh doanh và 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh).
Để thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững, phát huy được thế mạnh, tiềm năng của mình, thực sự là “lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước”, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Rất cần nhận diện những điểm nghẽn trong cơ chế, chính sách đối với khu vực doanh nghiệp này và những tồn tại hạn chế trong chính doanh nghiệp để từ đó đưa ra các định hướng, giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế-xã hội thời gian tới.
Do đó, Thủ tướng Chính phủ nêu 1 số vấn đề như vì sao DNNN chưa thể hiện được vai trò chủ lực dẫn dắt, mở đường, thúc đẩy thành phần kinh tế khác? Tại sao hiệu quả kinh doanh của nhiều DNNN còn chưa tương xứng với nguồn lực, điều kiện? Vì sao đóng góp chưa tương xứng? Phải chăng doanh nghiệp chưa chú trọng phát triển ngành nghề chính của mình hay khó khăn về cơ chế chính sách? Mô hình ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cần theo hướng nào? Tại sao công tác cổ phần hoá thoái vốn còn chưa hiệu quả?
Từng được ví như những “quả đấm thép” của nền kinh tế, thủ tướng đặt vấn dề doanh nghiệp nhà nước đã làm tốt vai trò này?
“Bởi thực tế cho thấy cùng một chủ trương chính sách nơi làm tốt nơi chưa, nơi đùn đẩy, nguyên nhân do chỉ đạo của Chính phủ? Của địa phương bộ ngành? Hay của bản thân doanh nghiệp?”, Thủ tướng nhấn mạnh.
>>>TIN NÓNG CHÍNH PHỦ: Đến năm 2025, cơ bản hoàn thành sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu khối DNNN
>>>TIN NÓNG CHÍNH PHỦ: Xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động DNNN
Người đứng đầu Chính phủ cũng đặt vấn đề tại sao hoạt động đổi mới sáng tạo, đầu tư cho KHCN chưa tương xứng?
Đặc biệt trong bối cảnh quốc tế và trong nước còn nhiều bất ổn, sự phát triển nhanh của cách mạng 4.0,…đã tác động nhiều mặt đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng, do đó Thủ tướng nhấn mạnh cần bàn giải pháp phù hợp hành động quyết liệt hiệu quả. Sau hội nghị này phải có bước tiến hiệu quả nhất định đặc biệt trong tình hình hiện nay.
“Chúng ta phải xây dựng nền kinh tế tự chủ. Xác định nguồn lực bên trong là lâu dài quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng. Muốn xây dựng nền kinh tế ổn định phải ổn định kinh tế vĩ mô, sử dụng hiệu quả các nguồn lực…”, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh.
Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết năm 2020, Việt Nam còn khoảng gần 500 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và gần 200 doanh nghiệp nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (trong số 350 doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước). Chỉ riêng các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đang nắm giữ, mặc dù chỉ chiếm khoảng 0,08% số doanh nghiệp nhưng lại nắm giữ nguồn lực lớn của nền kinh tế.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã xây dựng được các thương hiệu sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có uy tín, có ảnh hưởng lớn trong khu vực và quốc tế về nhiều lĩnh vực như dịch vụ viễn thông, dịch vụ vận tải, cảng biển và logistic…
Theo Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng đánh giá, tuy đạt được nhiều kết quả quan trọng nêu trên, kết quả hoạt động và đóng góp của khối DNNN trong thời gian qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của mình, nhất là nguồn lực đang nắm giữ và thị trường đang chi phối thể hiện ở 6 điểm nổi bật.
Một là, các tập đoàn, tổng công ty về cơ bản chưa thực hiện được vai trò dẫn dắt, tạo động lực đối với nền kinh tế. Thực tế cho thấy trong những năm gần đây, DNNN tuy nắm giữ nguồn lực lớn của nền kinh tế, nhưng không có các dự án đầu tư phát triển quy mô đủ lớn tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực mới như sản xuất năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, công nghệ cao, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá, tăng trưởng xanh, công nghiệp công nghệ 4.0…
Hai là, hiệu quả hoạt động của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Khu vực DNNN tiếp tục có xu hướng giảm dần quy mô và tỷ lệ đóng góp ở tất cả các chỉ tiêu về hiệu quả trong giai đoạn 2016-2021. Các DNNN nhìn chung đang có chỉ số nợ cao nhất trong các loại hình doanh nghiệp; chỉ hoạt động hiệu quả ở rất ít ngành, lĩnh vực có lợi thế tự nhiên như khai thác khoáng sản, dầu khí hoặc viễn thông, tài chính-ngân hàng.
Ba là, năng lực cạnh tranh, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của các DNNN quy mô lớn vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước.
Hoạt động của DNNN nhìn chung còn thiên về ”hướng nội”. Các chỉ tiêu, kế hoạch của DNNN còn thiên về lượng, chưa chú trọng đến chất. Công tác đổi mới quản trị doanh nghiệp triển khai chậm, chưa thực sự tiệm cận theo các nguyên tắc và thông lệ quốc tế tốt, phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại. Chế độ đãi ngộ và xử lý trách nhiệm cơ bản vẫn áp dụng như đối với công chức, viên chức nhà nước, không tạo được động lực khuyến khích người lao động, nhất là cán bộ quản lý, dám chủ động, đổi mới sáng tạo và cống hiến hết mình trong quản lý, điều hành doanh nghiệp. Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo mới chỉ được quan tâm tại một số DNNN trong lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông, điện lực, dầu khí…
Bốn là, việc thực hiện các dự án đầu tư mới của DNNN trong thời gian qua không được thúc đẩy
Trong giai đoạn 2016-2020 vừa qua, rất ít dự án, công trình mới có quy mô lớn của DNNN được khởi công, các DNNN chỉ tiếp tục thực hiện các dự án dở dang hoặc xử lý các dự án không hiệu quả từ giai đoạn trước.
“Tính riêng đối với 19 Tập đoàn Tổng công ty thuộc UBQLVNN và Tập đoàn Viettel, nơi nắm giữ đến gần 90% nguồn lực của khu vực DNNN, chỉ triển khai thực hiện 03 dự án đầu tư nhóm A, trong đó có 02 dự án chuyển tiếp từ năm 2015 trở về trước và 1 dự án khởi công mới năm 2016. Việc không tạo ra được năng lực tăng thêm này sẽ dẫn đến trong 5 năm tới, đóng góp của khu vực DNNN đối với nền kinh tế sẽ rất hạn chế khi tỷ trọng đóng góp hiện nay của DNNN vào GDP đang là khoảng 29%”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Năm là, việc tái cơ cấu toàn diện DNNN vẫn mang tính hình thức, mới chủ yếu tập trung sắp xếp, CPH, thoái vốn để có cơ cấu hợp lý hơn, mà chưa chú trọng thực hiện các định hướng, giải pháp đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao và một chiến lược kinh doanh dài hạn có tính khả thi cao.
Việc nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực quản trị DNNN theo chuẩn mực quốc tế chưa ghi nhận được kết quả đáng kể. Trình độ quản trị của DNNN tại Việt Nam vẫn còn rất thấp so với chuẩn mực quốc tế. Các Tổng giám đốc (CEO) của DNNN chủ yếu thông qua cơ chế bổ nhiệm theo quy hoạch; mức lương và các chế độ đãi ngộ khác chưa gắn với hiệu quả công việc.
Sáu là, thiếu tầm nhìn chiến lược để phát triển doanh nghiệp nhất là tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu và vươn ra quốc tế.
Có thể bạn quan tâm
20:20, 18/03/2022
12:21, 18/03/2022
18:23, 03/03/2022
20:05, 28/02/2022
04:00, 07/12/2021