Diễn đàn Logistics Vùng lần thứ V: “Chuyển đổi số - động lực mới thúc đẩy tăng trưởng Vùng đồng bằng sông Hồng - Hải Phòng” do VCCI, UBND Hải Phòng chỉ đạo; Sở Công Thương, DĐDN, VLA, HPLA tổ chức.
Là một trong những ngành then chốt, được ví như “mạch máu” của nền kinh tế, logistics cần được đầu tư mạnh mẽ, đặc biệt trong khía cạnh “số hóa” để có thể đáp ứng, thích nghi với bối cảnh thị trường, hỗ trợ tối đa thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề khác. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 cũng đã xác định logistics là 1 trong 8 lĩnh vực cần ưu tiên chuyển đổi số.
Mặc dù lợi ích mang lại từ chuyển đổi số là rất rõ ràng, quá trình chuyển đổi số trong logistics ở vùng Đồng bằng sông Hồng vẫn còn nhiều khó khăn cả ở cấp độ vĩ mô và vi mô, cả ở các cơ quan quản lý nhà nước, địa phương và doanh nghiệp.
Một số gian hàng tại Diễn đàn Logistics Vùng Lần thứ V: “Chuyển đổi số - động lực mới thúc đẩy tăng trưởng Vùng Đồng bằng sông Hồng- Hải Phòng 2024” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), UBND TP Hải Phòng chỉ đạo; Sở Công Thương, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, Hiệp hội Doanh nghiệp DV Logistics Việt Nam (VLA), Hiệp hội Logistics Hải Phòng (HPLA) đồng tổ chức.
Diễn đàn Logistics Vùng Lần thứ V - năm 2024 với chủ đề “Chuyển đổi số - động lực mới thúc đẩy tăng trưởng Vùng Đồng bằng sông Hồng- Hải Phòng 2024” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và UBND TP Hải Phòng chỉ đạo; Sở Công Thương, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, Hiệp hội Doanh nghiệp DV Logistics Việt Nam (VLA), Hiệp hội Logistics Hải Phòng (HPLA) đồng tổ chức ngày 28/05/2024 tại Hải Phòng sẽ đưa ra những đánh giá độc lập, đa chiều về định hướng phát triển logistics của Vùng đồng bằng sông Hồng nói chung cũng như TP Hải Phòng nói riêng; nhận diện những điểm nghẽn; nhận định xu hướng chuyển đổi số logistics từ các bài học quốc tế kết hợp thực tiễn phù hợp điều kiện của vùng.
Diễn đàn cũng đề cập và phân tích các cơ chế, chính sách hiện hành nhằm tạo thuận lợi và thúc đẩy thực thi chuyển đổi số ngành logistics; Đề xuất giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số ngành logistics theo hướng liên kết vùng, tận dụng lợi thể, cơ hội phát triển xứng tầm với tiềm năng…
Tham dự Diễn đàn, về phía lãnh đạo các cơ quan trung ương, trân trọng giới thiệu: Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; Ông Nguyễn Sinh Nhật Tân, Thứ trưởng Bộ Công Thương.
Về phía lãnh đạo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, cơ quan chỉ đạo Diễn đàn, trân trọng giới thiệu: Ông Phạm Tấn Công, Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Ông Nguyễn Quang Vinh, Bí thư Đảng uỷ, Phó Chủ tịch VCCI.
Về phía lãnh đạo Thành phố Hải Phòng - đơn vị đồng chỉ đạo Diễn đàn, trân trọng giới thiệu: Ông Nguyễn Đức Thọ, Phó Chủ tịch UBND TP Hải Phòng.
Ban tổ chức cũng trân trọng giới thiệu các lãnh đạo tỉnh, thành tham dự tại Diễn đàn: Ông Nguyễn Lê Huy, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hưng Yên; Ông Nguyễn Quang Hưng, Phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Thái Bình
Ban tổ chức trân trọng giới thiệu các diễn giả, những người có chuyên môn sâu về ngành logistics và lĩnh vực chuyển đổi số: TS Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu, Bộ Công Thương; Ông Nguyễn Hữu Hạnh, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia, Bộ Thông tin & Truyền thông; Ông Nguyễn Ngọc Trung, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Công nghiệp, Ban Kinh tế Trung ương; Ông Phạm Duyên Phương, Phó Cục trưởng Cục Công nghệ Thông tin, Tổng cục Hải quan; Ông Phạm Hoài Chung, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải, Bộ Giao thông vận tải; Ông Phan Nguyễn Hải Hà, Cục Hàng hải Việt Nam, Bộ Giao thông Vận tải.
Về phía lãnh đạo Liên đoàn Giao nhận Vận tải Quốc tế, trân trọng giới thiệu: Ông Thomas Sim, Phó Chủ tịch Cấp cao Liên đoàn Giao nhận Vận tải Quốc tế.
Về phía các diễn giả doanh nghiệp tham dự chương trình, trân trọng giới thiệu: Bà Phạm Thị Mỹ Lệ, Phó Giám đốc Marketing Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn; Ông Nguyễn Hữu Hùng, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị TGĐ Công ty Cổ phần công nghệ IOT Plus.
Ban tổ chức cũng trân trọng giới thiệu lãnh đạo các sở ngành: Kế hoạch Đầu tư, Công Thương, Thông tin truyền thông, Giao thông vận tải, Xây dựng, Ban quản lý các khu công nghiệp... của 11 tỉnh, thành Vùng Đồng bằng Sông Hồng.
Diễn đàn còn có sự tham gia của các chuyên gia từ các viện, trường, tổ chức quốc tế, hội doanh nhân trẻ, hội doanh nghiệp nhỏ và vừa, hiệp hội doanh nghiệp các tỉnh, các hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng, hiệp hội doanh nghiệp logistics các tỉnh thành và đặc biệt là hơn 300 doanh nghiệp logistics, doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn Vùng đồng bằng sông Hồng…
Về phía ban tổ chức, trân trọng giới thiệu: Ông Nguyễn Văn Thành, Giám đốc Sở Công Thương thành phố Hải Phòng; Nhà báo Nguyễn Linh Anh –Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp; Ông Đào Trọng Khoa, Phó Chủ tịch Liên đoàn Giao nhận Vận tải ASEAN (AFFA), Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA); Ông Nguyễn Minh Đức, Phó Chủ tịch Hiệp hội Logistics Hải Phòng (HPLA).
Ban tổ chức đặc biệt cảm ơn các nhà báo/phóng viên, biên tập viên các cơ quan thông tấn báo chí tham dự và đưa tin về Diễn đàn.
Ban tổ chức trân trọng cảm ơn các doanh nghiệp đồng hành: Công ty Cổ phần Đầu tư Sao Á; Công ty TNHH Giải pháp Logistics DTK; Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn; Công ty Cổ phần Tập đoàn đầu tư Sao Đỏ; Công ty Cổ phần Công nghệ PLUS; Và các doanh nghiệp đã góp phần vào sự thành công của Diễn đàn.
Chuyển đổi số không còn là xu hướng mà trở thành yêu cầu tất yếu của ngành logistics trên toàn thế giới,… đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua ứng dụng công nghệ số.
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Phạm Tấn Công – Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định chuyển đổi số quốc gia là một nhiệm vụ quan trọng, gồm 3 trụ cột chính, đó là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, trong đó có nội dung: “Đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại hình dịch vụ mới, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, y tế, giáo dục - đào tạo, viễn thông và CNTT, logistics và vận tải phân phối”.
Hiện tất cả các bộ, ngành và địa phương đã thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số; 17/22 bộ, ngành và 57/63 địa phương đã ban hành chương trình/kế hoạch/đề án chuyển đổi số giai đoạn 5 năm.
Đặc biệt, với mục tiêu đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính - Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số ký Quyết định 58/QĐ-UBQGCĐS ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2024 với mục tiêu phát triển kinh tế số với 04 trụ cột là công nghiệp công nghệ thông tin, số hóa các ngành kinh tế, quản trị số, dữ liệu số…
Cũng theo Chủ tịch Phạm Tấn Công, mặc dù lợi ích mang lại từ chuyển đổi số là rất rõ ràng, tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực logistics ở Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn cả ở cấp độ vĩ mô và vi mô, cả ở các cơ quan quản lý Nhà nước, địa phương và doanh nghiệp.
Khảo sát tại Báo cáo Logistics năm 2023 của Bộ Công Thương cho thấy, có 90,5% các doanh nghiệp dịch vụ logistics tham gia khảo sát đang còn ở giai đoạn số hóa, bao gồm cấp độ 1 là tin học hóa và cấp độ 2 là kết nối. Trong đó, phần lớn các doanh nghiệp đang ở cấp độ 2 với tỷ lệ chiếm tới 73,5%.
Chỉ có 5% doanh nghiệp dịch vụ logistics đã tiến lên cấp độ 3 là trực quan hóa, 2,2% ở cấp độ 4 là minh bạch hóa. Đặc biệt, chỉ có 1,9% doanh nghiệp dịch vụ logistics đã tiến lên cấp độ 5 là có khả năng dự báo và con số rất “khiêm tốn” 0,4% doanh nghiệp đạt đến cấp độ cao nhất, cấp độ 6 là có khả năng thích ứng.
“Nhìn chung, hiện tại trên thị trường, các doanh nghiệp dịch vụ logistics thực hiện chuyển đổi số đạt từ cấp độ 3 trở lên còn rất ít, chủ yếu tập trung ở nhóm doanh nghiệp lớn. Trong khi đó, phần lớn với 90% các doanh nghiệp dịch vụ logistics ở Việt Nam còn đang ở giai đoạn số hóa. Điều này cho thấy, chuyển đổi số trong ngành logistics tại Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu, chưa thực sự được chú trọng và đầu tư đúng mức”, Chủ tịch Phạm Tấn Công chia sẻ.
Đồng thời cho rằng, với riêng Vùng đồng bằng sông Hồng, Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định phát triển TP. Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh dần trở thành trung tâm kinh tế biển lớn.
Đặc biệt, Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được công bố tháng 5/2024 mà Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính là Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng đưa quan điểm xác định, Vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng, là động lực phát triển hàng đầu, có vai trò dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước để tạo đột phá phát triển nhanh, bền vững. Tầm nhìn năm 2050 được xác định: sẽ hình thành các trung tâm dịch vụ lớn mang tầm khu vực và thế giới về thương mại, du lịch, tài chính, logistics ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.
Chủ tịch Phạm Tấn Công cho biết, từ năm 2022 VCCI đã cùng 4 tỉnh, thành phố Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Dương ký kết “Thoả thuận hợp tác kết nối kinh tế cao tốc phía Đông”, theo đó, 4 tỉnh, thành phố thống nhất xây dựng liên kết kinh tế trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, nâng cao tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế và hình thành cực tăng trưởng trong vùng đồng bằng sông Hồng; nâng cao hiệu quả khai thác cơ sở hạ tầng trong vùng với đường cao tốc, hệ thống cảng biển, sân bay quốc tế, kết nối thị trường trong nước với thị trường Trung Quốc và quốc tế - trong đó kết nối trong lĩnh vực logistics là một trong những hợp tác quan trọng…
Logistics được coi là xương sống của nền kinh tế. Chuyển đổi số đang không còn là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu tất yếu của ngành logistics trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Sự phát triển của thị trường logistics tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp dịch vụ logistics, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua ứng dụng công nghệ số.
“Hiện nay, thị trường logistics Việt Nam có sự tham gia của khoảng 43.000 doanh nghiệp trong nước, đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và khoảng 30 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia, với các tên tuổi lớn như: DHL, FedEx, Maersk Logistics, APL Logistics, CJ logistics, KMTC Logistics… Điều này cho thấy, sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường dịch vụ logistics vốn rất nhiều tiềm năng.
Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực logistics để vừa khắc phục được những vấn đề nảy sinh trong đợt dịch bệnh vừa qua, vừa có thể tận dụng được lợi thế hiện nay của cách mạng số và thành tựu Cách mạng công nghiệp 4.0. Thông qua hoạt động chuyển đổi số, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics sẽ thay đổi tư duy, tạo sự đột phá để nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi phí logistics, tăng trưởng, có thêm khách hàng và đạt lợi nhuận tối đa vượt trội so với trước khi chuyển đổi số”, Chủ tịch Phạm Tấn Công chia sẻ.
Đồng thời tin tưởng, thông qua Diễn đàn Logistics vùng lần thứ V: “Chuyển đổi số - Động lực mới thúc đẩy tăng trưởng Vùng Đồng bằng Sông Hồng – Hải Phòng 2024” sẽ có thêm những giải pháp, phương hướng để chuyển đổi số trong khối doanh nghiệp logicstics sớm thành công và hiện thực hóa Nghị quyết số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến 2025, định hướng đến năm 2030 với định hướng đến năm 2030 xác định logicsitcs là một trong tám lĩnh vực được ưu tiên trong chuyển đổi số.
“Tôi ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của ban tổ chức chương trình Diễn đàn ngày hôm nay. Tôi đề nghị các quý vị đại biểu tích cực thảo luận về chủ đề và những nội dung chính được đưa ra tại Diễn đàn bao gồm: Chuyển đổi số - nền tảng phát triển logistics thông minh, Cơ hội phát triển bứt phá từ Khu thương mại tự do, cùng với những vấn đề như chính sách hỗ trợ tạo động lực thúc đẩy liên kết vùng phát triển logistics đồng bằng Sông Hồng, tháo gỡ điểm nghẽn trong chuyển đổi số tại các doanh nghiệp logistics…”, Chủ tịch Phạm Tấn Công bày tỏ.
Phát biểu tại Diễn đàn ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương cho biết, logistics đang là ngành dịch vụ có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của các nước, trong đó có Việt Nam.
Theo ông Hiển, trong những năm qua, cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, ngành logistics ở Việt Nam đã và đang được quan tâm đầu tư phát triển, chất lượng được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu.
Hiện nay, trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh các yêu cầu liên quan đến vấn đề cơ cấu lại và thúc đẩy chuyển đổi số ngàng logistics và vận tải phân phối. Theo đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, đã đề ra nhiệm vụ “Đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại hình dịch vụ mới, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, pháp lý, y tế, giáo dục - đào tạo, viễn thông và CNTT, logistics và vận tải phân phối”.
Đặc biệt gần đây Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã nhấn mạnh chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời xác định nội dung cốt lõi của giai đoạn 2021 - 2030 là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả và bền vững. Nhấn mạnh yêu cầu "tập trung phát triển các loại dịch vụ mới có tính liên ngành và giá trị gia tăng cao", đồng thời đề ra yêu cầu có chiến lược, cơ chế, chính sách mới vượt trội, cạnh tranh quốc tế cao để thúc đẩy hình thành một số trung tâm logistics tầm cỡ khu vực và quốc tế...
Ông Hiển cho biết, ngành dịch vụ logistics được coi là xương sống của chuỗi cung ứng, do đó yêu cầu về chuyển đổi số trong ngành cũng không nằm ngoài xu thế chung của toàn bộ nền kinh tế. Tại Việt Nam, chuyển đổi số đã được định hướng trong Quyết định 749/QĐ- TTg năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đã xác định logictics là một trong tám ngành cần được ưu tiên chuyển đổi số trước.
Đặc biệt, vùng Đồng bằng sông Hồng là thị trường đầy tiềm năng và hấp dẫn cho ngành logistics phát triển. Đây được coi là cửa ngõ phía bắc của nước ta và ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại với Trung Quốc - thị trường rộng lớn nhất thế giới và ngược lại; là cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế.
So với các vùng kinh tế khác trong cả nước, vùng có hệ thống hạ tầng giao thông kết nối đồng bộ và tốt nhất cả nước với đầy đủ 5 phương thức vận tải (cả đường bộ, đường biển, đường sông, đường hàng không, đường sắt) với ba tuyến hành lang kinh tế đi qua. Do đó, ông Hiển nhấn mạnh, ngành logistics của vùng Đồng bằng sông Hồng còn có nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
Ông Hiển nhận định, là nền kinh tế phát triển năng động, đã tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do, trong đó có các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới không chỉ mở ra không gian thị trường rộng lớn, thúc đẩy các hoạt động sản xuất, thương mại, đầu tư phát triển mạnh mẽ, mà còn tạo nên những cơ hội mới cho Việt Nam thúc đẩy phát triển mạnh mẽ lĩnh vực logistics.
Năm 2023, theo bảng xếp hạng chỉ số hiệu quả logistics (LPI) do Ngân hàng Thế giới công bố, Việt Nam đã tiếp tục đà tăng điểm đạt được trong báo cáo LPI 2018 khi đạt mức tăng 0,03 điểm, từ 3,27 điểm lên 3,3 điểm, xếp vị trí thứ 43 trong số 139 nền kinh tế được xếp hạng với sự cải thiện của các yếu tố về hạ tầng, hải quan và gửi hàng quốc tế. Việt Nam cũng lọt vào top 10 trong số 50 thị trường logistics mới nổi trên thế giới. Trong đó, chỉ tiêu về cơ hội logistics quốc tế, Việt Nam xếp hạng 4 thế giới và được đánh giá là quốc gia có tiềm năng phát triển logistics hàng đầu khu vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên, ông Hiển chỉ ra, ngành logistics của chúng ta vẫn còn những hạn chế như: Vận tải hàng hoá trong nước chủ yếu là đường bộ, chi phí logistics còn ở mức cao, năng lực và chất lượng dịch vụ, tính chuyên nghiệp còn hạn chế. Việc đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp logistics, hoặc giữa doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu còn yếu; chưa hình hình thành được mạng lưới các doanh nghiệp logistics Việt Nam có quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt, tiên phong để tiến ra thị trường quốc tế.
Quá trình chuyển đổi số trong ngành có nhiều kết quả tích cực nhưng nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; trình độ nguồn nhân lực và nguồn vốn đầu tư còn nhiều hạn chế; cơ sở hạ tầng thương mại, hạ tầng giao thông vẫn chưa được đầu tư tương xứng, đồng bộ với nhu cầu phát triển thực tiễn; cơ chế phối hợp liên ngành trong lĩnh vực logistics có lúc, có nơi còn chưa phát được huy hiệu lực, hiệu quả.
Tại Vùng đồng bằng sông Hồng, phát triển ngành logistics cũng đã và đang đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn như: Quỹ đất để xây dựng hệ thống kho hàng, kho bãi, trung tâm trung chuyển hàng hoá, trung tâm logistics không nhiều, vốn đầu tư của các doanh nghiệp không lớn. Huy động vốn đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng logistics còn hạn chế, thiếu đồng bộ.
Bên cạnh đó, hệ thống kho hàng, bến bãi trên địa bàn một số địa phương vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết và gần như chưa có chuyển biến rõ rệt nhằm hỗ trợ lưu thông hàng hóa. Các cảng cạn khu vực phía Bắc chưa kết nối với cảng biển rõ rệt như đối với cảng cạn khu vực phía Nam; quy mô khai thác nhỏ, chưa có các trang thiết bị xếp dỡ hàng chuyên dụng. Việc liên kết, hợp tác giữa các địa phương trong vùng còn chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp…
"Bối cảnh và thực trạng trên đặt ra yêu cầu đối với ngành logistics Việt Nam nói chung và của Vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng vừa phải có các giải pháp duy trì, đảm bảo vai trò của logistics trong việc duy trì các chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ; vừa phải có tư duy, tầm nhìn, giải pháp đặc biệt, định hình các hướng đi mới để bắt kịp với thế giới, tạo ra những bước đột phá phát triển", ông Hiển nhấn mạnh.
Để phát triển ngành logistic nói chung và thúc đẩy chuyển đổi số ngành logistic nói riêng cần có sự vào cuộc đồng bộ, kịp thời, hiệu quả của các cấp, các ngành và cộng đồng doanh nghiệp. Do đó, ông Hiển kiến nghị 6 nhiệm vụ trọng tâm cần quan tâm triển khai trong thời gian tới.
Một là, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thể chế, nhất là việc thể chế hóa kịp thời các quan điểm, đường lối của Đảng trong phát triển logistics và quá trình chuyển đổi số của ngành. Tuy nhiên, qua khảo sát của Ban Kinh tế Trung ương, nhiều định hướng chưa kịp thời ban hành.
Đối với lĩnh vực logistics, ông Hiển cho rằng đang trong quá trình tham mưu, ban hành Chiến lược tổng thể phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045 với những mục tiêu, định hướng, biện pháp để cụ thể hóa mục tiêu chuyển đổi kép là “Chuyển đổi số” và “Chuyển đổi xanh” trong ngành logistics trong thời gian tới
Hai là, chú trọng xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng logistics đồng bộ, hiện đại; phát huy vai trò của logistics thúc đẩy liên kết vùng, liên kết giữa các địa phương nội vùng mạnh mẽ. Có nhiều vấn đề chủ trương cần tiếp tục cụ thể hóa trong thời gian tới, như làm thế nào để các địa phương có nguồn lực để đầu tư vào các hạ tầng mang tính chất liên vùng, tiểu vùng của các địa phương khác.
Ba là, cần tháo gỡ các cơ chế chính sách trong hoạt động đầu tư hạ tầng thúc đẩy liên kết vùng như nghiên cứu hình thành các quỹ đầu tư phát triển hạ tầng như đã có định hướng trong Nghị quyết 29 để khai thác quỹ đất để thúc đẩy liên kết vùng; thúc đẩy đô thị hóa theo mô hình TOD... để quá trình xây dựng hạ tầng cho logistics đi vào thực tiễn,
Do ngành logistics gắn liền với các lĩnh vực kinh tế khác, đặc biệt là các mô hình mới trong phát triển kinh tế, ông Hiển cho biết, cần phải có nghiên cứu các cơ chế, chính sách thực sự đột phá, vượt trội đang được áp dụng tại một số uốc gia cho mô hình khu thương mại tự do để có thể vận dụng phù hợp với điều kiện của một số tình, thành phố có lợi thế trong việc phát triển mô hình này, từ đó tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho lĩnh vực logistics.
Bốn là, cần phát triển logistics thông minh dựa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành logistics, tận dụng và khai thác tối đa hiệu quả của quá trình chuyển đổi số để phát triển ngành logistics.
Phát triển hệ thống hạ tầng số để có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các giải pháp công nghệ mới trong lĩnh vực này. Đặc biệt, cần sớm xây dựng và công bố xây dựng nền tảng số quốc gia về quản trị và kinh doanh vận tải. Đây là các vấn đề yêu cầu các Bộ, ngành cần sớm thực hiện.
Năm là, cần phát triển hệ thống phân phối hàng hóa đủ sức tham gia vào mạng lưới phân phối toàn cầu; phát triển thương mại điện tử, các loại hình thương mại dựa trên nền tảng số hóa. Phát triển các kênh, luồng lưu thông hàng hóa giữa thành thị và nông thôn; hình thành các trục thương mại lớn của vùng, phát triển hệ thống logistics, chợ đầu mối hiện đại, thông minh, bền vững; đẩy mạnh thương mại điện tử; hình thành các sàn giao dịch hàng hoá và các cụm, khu vực hội chợ triển lãm.
Sáu là, chú trọng huy động các nguồn lực cho phát triển logistics theo hướng xã hội hóa, tăng cường hợp tác công - tư trong xây dựng và phát triển các trung tâm logistic trong và ngoài nước, đặc biệt đối với các thị trường đối tác chiến lược. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực cho ngành logistics, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại; thu hút đầu tư phát triển các trung tâm logistics, đặc biệt là trung tâm logistics ứng dụng công nghệ cao.
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Đức Thọ - Phó Chủ tịch UBND TP Hải Phòng cho biết, Hải Phòng hội tụ đủ yếu tố cần thiết để trở thành một trong những đầu mối logistics quan trọng, trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa đa phương thức kết nối Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với cả nước, khu vực và quốc tế.
Theo đó, TP Hải Phòng được biết đến là đô thị cảng biển đã hình thành đến nay được hơn 135 năm, với hơn 126 km bờ biển, hơn 4.000 km diện tích mặt biển; là đầu mối giao thông - giao lưu quan trọng của Việt Nam và quốc tế. Thành phố có hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đồng bộ, với 5 loại hình giao thông (đường biển, bộ, đường sắt, hàng không, thủy nội địa) thuận lợi kết nối liên tỉnh, liên vùng và đi các nước trên thế giới.
Với vị trí trọng yếu trong vùng Duyên hải Bắc Bộ, giao điểm của 2 hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng và tuyến hành lang ven biển phía Bắc; là đầu mối giao thông quan trọng, cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc; và được xác định là đô thị trung tâm cấp quốc gia, khu vực và quốc tế, đồng thời là đô thị trung tâm gắn kết hoạt động kinh tế hệ thống đô thị của Vùng Duyên hải Bắc Bộ.
Ông Nguyễn Đức Thọ cho biết, xác định logistics là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế, đóng góp vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, thành phố Hải Phòng đã triển khai nhiều chương trình, dự án nhằm thúc đẩy phát triển logistics và đã đạt được những kết quả quan trọng, toàn diện trên nhiều lĩnh vực.
Trong đó, Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải với diện tích 22.540 ha và 14 khu công nghiệp đang triển khai hoạt động đầu tư, xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng với tổng diện tích hơn 6.000 ha, gồm 9 khu công nghiệp nằm trong Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải và 5 khu công nghiệp nằm ngoài khu kinh tế, tạo nên tiềm năng, lợi thế kết nối logistics từ hệ thống cảng biển, cảng hàng không và hệ thống giao thông vô cùng thuận lợi, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu.
TP cũng phát triển 5 khu bến với 98 cầu bến các loại, trong đó có 52 bến cảng thuộc hệ thống các Cảng biển Việt Nam với tổng chiều dài là hơn 14 km cùng 08 đoạn luồng hàng hải chính, trong đó, nổi bật là khu bến cảng Lạch Huyện với chức năng cửa ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế, đã được hoàn thành và đưa vào khai thác 2 bến khởi động từ tháng 5/2018, có thể tiếp nhận tàu lên tới 200.000 tấn.
Hệ thống kho, bãi phục vụ cho dịch vụ logistics đạt hơn 700 ha với khoảng hơn 60 kho bãi chính bao gồm hệ thống kho bãi tại các cảng biển; kho ngoại quan; hệ thống kho bãi tại các điểm thu gom hàng lẻ, địa điểm kiểm tra tập trung và hệ thống kho chứa hàng hóa thông thường và kho lạnh khác.
Theo quy hoạch, mạng lưới logistics thành phố Hải Phòng đến năm 2030 đạt khoảng 1.700 - 2.000 ha và đến năm 2040 khoảng 2.200 2.500 ha, gồm trung tâm logistics quốc tế và cấp vùng ở khu vực Đình Vũ - Cát Hải; các trung tâm logistics cấp thành phố, trung tâm logistics chuyên dụng, trung tâm logistics hỗ trợ gắn với các đầu mối giao thương chính.
Bên cạnh đó, những năm qua, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng trên 13%, gấp hơn 8 lần bình quân chung cả nước. Tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics trên địa bàn thành phố đạt khoảng 20 - 23%/năm; tỷ trọng đóng góp vào GRDP thành phố đạt từ 13 - 15%. Trong năm 2023, thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 3,5 tỷ đô la Mỹ.
Đặc biệt, môi trường đầu tư kinh doanh tại Hải Phòng tiếp tục được cải thiện mạnh mẽ, năm 2023, Chỉ số cải cách hành chính được xếp thứ 02/63 tỉnh thành phố; Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được xếp thứ 03/63 tỉnh, thành phố.
Theo ông Nguyễn Đức Thọ, với những lợi thế, tiềm năng vị trí địa lý, cùng quyết tâm mạnh mẽ của thành phố và nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp, người dân, thành phố Hải Phòng hội tụ đủ yếu tố cần thiết để trở thành một trong những đầu mối logistics quan trọng, trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa đa phương thức kết nối Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với cả nước, khu vực và quốc tế.
Ông Nguyễn Đức Thọ nhấn mạnh, thành phố Hải Phòng đang tập trung xúc tiến và thu hút đầu tư theo hướng phát triển ba trụ cột kinh tế gồm: công nghiệp - công nghệ cao, cảng biển - logistics, du lịch - thương mại.
Theo đó, thông qua Diễn đàn Logistics Vùng Lần thứ 5 với chủ đề “Chuyển đổi số - Động lực mới thúc đẩy tăng trưởng Vùng đồng bằng sông Hồng-Hải Phòng 2024”, thành phố sẵn sàng lắng nghe những ý kiến chia sẻ của quý vị để chúng ta cùng tìm ra những giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng hiệu quả trong lĩnh vực logistics.
Phát biểu tại Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết, xác định rõ được tầm quan trọng mang tính chiến lược và đột phá của vùng Đồng bằng sông Hồng, Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định đây là “địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; là vùng động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước”.
Và gần đây, Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Thủ tướng Chính phủ (đồng thời là Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng) ban hành tại Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 04/5/2024 cũng đã đưa ra quan điểm xác định “phát triển và cơ cấu lại kinh tế vùng phải dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của vùng; phát huy tối đa những lợi thế của vùng và tác động lan tỏa của các vùng động lực, cực tăng trưởng, các hành lang kinh tế và các cảng quốc tế; hình thành các trung tâm dịch vụ lớn mang tầm khu vực và thế giới về thương mại, du lịch, tài chính, logistics ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh”.
“Trong giai đoạn vừa qua, vùng Đồng bằng sông Hồng luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh. Riêng trong năm 2023, tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng đạt 6,28%, đứng thứ 3/6 vùng kinh tế (sau vùng Trung du và miền núi phía Bắc và vùng Đồng bằng sông Cửu Long); GRDP bình quân đầu người đạt 131,9 triệu đồng, đứng thứ 2 cả nước (sau vùng Đông Nam Bộ); kim ngạch xuất nhập khẩu toàn vùng đạt trên 260,88 tỷ USD, cao nhất trong 6 vùng kinh tế, chiếm 38% kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước”, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân chia sẻ.
Theo Thứ trưởng, cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 đã và đang tạo ra những biến đổi trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Những đột phá về trí tuệ nhân tạo và khoa học công nghệ đang thay đổi cách con người tương tác với thế giới và mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp thực hiện tối ưu hóa quy trình, tăng hiệu suất, giảm chi phí. Là một trong những ngành then chốt, logistics cũng không nằm ngoài xu hướng đó, theo đó cần được đầu tư kỹ lưỡng, đặc biệt trong khía cạnh “chuyển đổi số” để có thể đáp ứng và thích nghi với bối cảnh thị trường, giúp giảm chi phí logistics, nâng cao chất lượng dịch vụ và hỗ trợ tối đa thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề khác.
“Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng và xem chuyển đổi số là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6, khóa XIII về “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã định hướng “Coi chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa””, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Đồng thời cho rằng, xuất phát từ những lợi ích mang lại từ chuyển đổi số trong logistics, một trong những nhiệm vụ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 theo Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ là “Nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong quản lý, vận hành, đào tạo về chuỗi cung ứng nhằm đạt chất lượng dịch vụ logistics cao hơn”.
Bên cạnh đó, theo Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020, logistics là 1 trong 8 lĩnh vực cần được ưu tiên chuyển đổi số trước…
Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân, để cùng tìm ra những định hướng, giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tận dụng tối ưu những lợi ích mà chuyển đổi số mang lại giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành logistics vùng Đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới, tôi đánh giá cao về nội dung của Diễn đàn Logistics Vùng lần thứ V do VCCI cùng UBND thành phố Hải Phòng phối hợp chỉ đạo tổ chức.
Chủ đề của các bài tham luận và của hai Phiên thảo luận “Chuyển đổi số - Nền tảng phát triển logistics thông minh”, “Cơ hội phát triển đột phá từ Khu thương mại tự do” sẽ góp phần gợi mở để đề xuất những chủ trương, chính sách, giải pháp tổng thể mang tính vĩ mô nhằm hình thành các khu thương mại tự do, đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển dịch vụ logistics cả nước nói chung và vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng.
“Tôi tin tưởng với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các đồng chí Lãnh đạo Đảng, sự cầu thị, lắng nghe tiếp thu của các Bộ, ngành, địa phương và sự góp ý sôi nổi, thẳng thắn của các đại biểu từ các Hiệp hội, doanh nghiệp và chuyên gia, Diễn đàn Logistics Vùng lần thứ 5 sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ đặt ra. Đồng thời, sau Diễn đàn lần này, toàn bộ các cấp, các ngành sẽ có quyết tâm cao hơn để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và tổ chức triển khai hiệu quả hơn các cơ chế, chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển logistics và chuyển đổi số đối với vùng Đồng bằng sông Hồng, qua đó khai thông những động lực mới, cùng với khơi dậy khát vọng, phát huy những tiềm năng, lợi thế của từng địa phương để góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội cho toàn vùng trong thời gian tới.
Về phía Bộ Công Thương, "chúng tôi cũng xin ghi nhận các ý tưởng, sáng kiến, giải pháp công nghệ mới giúp tối ưu hóa, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số được chia sẻ, thảo luận tại Diễn đàn ngày hôm nay để tiếp thu, hoàn thiện Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến năm 2045 sớm trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt”, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân bày tỏ.
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết: Vùng Đồng bằng sông Hồng có nhiều lợi thế lớn, vừa tiếp giáp với biển vừa tiếp giáp thị trường lớn ở khu vực Đông Bắc Á, trước hết là Trung Quốc; gần các tuyến hàng hải quốc tế; nhiều khu kinh tế và khu công nghiệp phát triển đã tạo ra lượng hàng hoá dồi dào là đầu vào cho dịch vụ logistics...
Hạ tầng đường bộ, đường sắt, hàng không, đường biển, đường thuỷ nội địa phát triển, thúc đẩy lượng hàng hoá lưu chuyển nhanh tăng nhanh, kết nối các tỉnh, thành trong vùng với các tỉnh phía Bắc và phía Nam. Vùng Đồng bằng sông Hồng tập trung nhiều trung tâm logistics lớn, hiện đại, đa tầng, từng bước tự động hoá ở các tỉnh, thành như Bắc Ninh, Hải Phòng, Hưng Yên góp phần thúc đẩy dịch vụ logistics thời gian qua.
Bên cạnh những lợi thế, phát triển logistics trong vùng, theo ông Trần Thanh Hải còn có một số hạn chế. Đó là, cơ sở hạ tầng chưa kết nối đồng bộ, chưa phát huy vai trò của đường sắt và đường thuỷ nội địa trong khi đường thuỷ nội địa là một trong những công cụ góp phần hiện thực hoá mục tiêu giảm phát thải, đưa phát thải ròng về 0. Hạ tầng ở một số nơi, một số chỗ còn quá tải...
Theo phản ánh của các doanh nghiệp, ngành dịch vụ logistics chưa có chính sách hỗ trợ cụ thể hay việc tiếp cận đất đai xây dựng hạ tầng logistics có khó khăn nhất định và mất nhiều thời gian từ 2-3 năm khiến chi phí cơ hội rất lớn. Ngoài ra, chi phí có sự biến động, nhất là trong thời gian qua, các doanh nghiệp phản ánh các loại phí và phụ phí ở các cảng biển, hãng tàu chưa hợp lý, mức thu chưa có lý giải để có thể chấp nhận được.
Về mặt nhân lực, với số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này lên đến 35.000 - 45.000, nhân lực bước đầu đáp ứng được nhưng chất lượng và tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực còn yếu.
Áp lực chuyển đổi xanh đang trở thành áp lực với các doanh nghiệp. Nếu không chứng minh là doanh nghiệp xanh như kho bãi không có chứng chỉ công trình xanh có thể không được lựa chọn đưa vào chuỗi cung ứng và khách hàng không tìm đến…
Trước thực tế trên, bên cạnh chiến lược dài hạn, kế hoạch trung hạn, ông Trần Thanh Hải cho rằng, cần xem xét một số động lực đột phá mới.
Trước hết là khu thương mại tự do. Đây không phải là khái niệm mới trên thế giới. Thực tiễn hoạt động của loại hình khu kinh tế tương tự như khu thương mại tự do ở Việt Nam cũng đã có như khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất.
Khu thương mại tự do là loại hình mang lợi thế tổng hợp, đó là khu phi thuế quan, là hình thái tổng hợp gồm doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ cùng các doanh nghiệp logistics có thể cùng tham gia hoạt động. Điều này tạo lợi thế lớn cho khu thương mại tự do như thu hút đầu tư trong và ngoài nước, nhất là doanh nghiệp có nhu cầu lưu chuyển hàng hoá nhanh giữa thị trường trong và nước ngoài. Khu thương mại tự do gắn với cảng biển, sân bay, cửa khẩu sẽ là trợ lực, cộng sinh cho cảng cũng như tạo thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp, qua đó lượng hàng hoá vào cảng, hàng hoá xuất nhập khẩu tăng lên, giúp cho dịch vụ logistics tăng lên.
Tuy nhiên, theo ông Hải, vấn đề khó khăn hiện nay cơ sở pháp lý cho khu thương mại tự do chưa thể hiện rõ ràng. Đây là điểm nghẽn và một số địa phương nỗ lực thiết lập khu thương mại tự do. Mới đây, thành phố Đà Nẵng đang kiến nghị có cơ chế trong Nghị quyết đặc thù của Quốc hội để có thể được làm. Phải chăng, đây là cách làm để một số địa phương trong vùng có thể nghiên cứu, sớm đưa khu thương mại tự do vào hoạt động.
Bên cạnh cơ chế, để khu thương mại tự do có thể được đưa hoạt động, cần có quy hoạch và tìm được nhà đầu tư có năng lực.
Thứ hai, về chuyển đổi số. Đây là nội dung được đề cập nhiều trong thời gian qua với các vấn đề liên quan đến công nghệ, sự chuẩn bị về tài chính, nhân lực… Trong đó, ông Trần Thanh Hải đề cập đến việc liên kết hạ tầng, bao gồm liên kết hạ tầng giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với địa phương, giữa các cơ quan nhà nước với doanh nghiệp. Thời gian qua, hoạt động Chính phủ điện tử và dịch vụ công trực tuyến tạo sự kết nối giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, nhất là trong hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, sự thúc đẩy để lan rộng phạm vi các hoạt động đó đang chững lại.
Chia sẻ dữ liệu chính là cách phát huy tốt nhất lợi ích của chuyển đổi số nhưng thời gian qua, đây là điểm nghẽn, ngay giữa các cơ quan Nhà nước với nhau hay giữa các cơ quan với các doanh nghiệp để có thể sử dụng dữ liệu… Bên cạnh đó, cần phát triển các giải pháp, ứng dụng như ứng dụng cảng thông minh; đào tạo nhân lực
Thứ ba, chuyển đổi xanh. Bên cạnh ô nhiễm môi trường, giảm phát thải khí nhà kính trở thành vấn đề nóng. Chính phủ đã có quy định cụ thể về kiểm kê khí nhà kính, sắp tới, ngoài các cơ sở sản xuất công nghiệp, cơ sở năng lượng thì các cơ sở hạ tầng về logistics, trước hết là các trung tâm logistics có thể phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính.
Ông Trần Thanh Hải cũng đề xuất một số nội dung khác tạo động lực cho sự phát triển logistic như xây dựng Kế hoạch phát triển logistics của địa phương phù hợp với chiến lược quốc gia; chăm sóc hỗ trợ đội ngũ doanh nghiệp để hình thành các doanh nghiệp lớn có vai trò dẫn dắt; thúc đẩy liên kết giữa các địa phương trong Vùng; xây dựng khu/trung tâm logistics lớn, hiện đại, thông minh và tự động…
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Thomas Sim - Phó Chủ tịch cấp cao Liên đoàn Giao nhận Vận tải Quốc tế (FIATA) cho biết, bối cảnh thế giới đang ngày một trở nên khó đoán định, phức tạp với nhiều yếu tố tác động mạnh mẽ lên chuỗi cung ứng như đại dịch COVID-19; các sự kiện bất khả kháng như yếu tố thiên tai; Chiến sự Nga - Ukraine, xung đột Biển Đỏ; căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc...
Đặc biệt, ông Thomas Sim chỉ ra, đại dịch COVID-19 đã giáng một đòn mạnh mẽ đến các quốc gia phụ thuộc lớn vào chuỗi cung ứng và thương mại toàn cầu do luồng hàng hóa không thể di chuyển tự do bởi các lệnh hạn chế nghiêm ngặt.
Bên cạnh đó, sự mong manh của chuỗi cung ứng bộc lộ khi nguồn cung toàn cầu bị đứt gãy do đại dịch; điều này càng trở nên trầm trọng hơn do các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt và tình trạng thiếu lao động gây ra.
Mặt khác, quá trình chuyển đổi lực lượng lao động và kỹ thuật số cũng dẫn đến sự thay đổi lâu dài trong thói quen tiêu dùng và hành vi kinh doanh, gây nên những biến động về giá cả, cung và cầu và tạo ra một nền tảng mong manh cho sự tăng trưởng.
Cộng đồng vận tải toàn cầu cũng đang chịu sự gián đoạn do xung đột tại vùng biển Đỏ. Ông Thomas Sim cho biết hiện các nhà sản xuất, bán lẻ chịu tác động ngắn và dài hạn cũng đang chịu các chi phí cao khi các hãng vận tải đường biển sẽ triển khai thêm nhiều đợt tăng cước vào tuần tới, với cước FAK từ châu Á đến Bắc Âu tăng lên tới $20.000/40ft.
Và các chủ tàu vận chuyển hàng hóa xuyên Đại Tây Dương cũng đang cảm thấy tổn thương do sự lây lan của việc tăng cước với mức tăng mạnh hàng tuần khi giá cước giao ngay (FBX) của tuần này từ Bắc Âu đến Mỹ đã tăng 17%, lên 5.069 USD/40ft.... Những yếu tố này đã đặt ra nhu cầu phải tăng tính linh hoạt của chuỗi cung ứng để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng và bền vững để đối phó tốt hơn với các yếu tố khó đoán định trong tương lai.
Ồng Thomas Sim cho biết, chuyển đổi số sẽ góp phần củng cố năng lực cho các doanh nghiệp logistics, từ đó có thể đối phó với những yếu tố khó lường trong tương lai. Cụ thể, ông chỉ ra, số hóa là việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số để thay đổi mô hình kinh doanh và cung cấp các cơ hội để tạo ra doanh thu và giá trị mới.
Quá trình chuyển đổi sang kinh doanh kỹ thuật số giúp thúc đẩy các dự án kinh doanh kiểu mới (ví dụ là như các doanh nghiệp khởi nghiệp theo hướng tối giản), hình thức này giúp cho các doanh giảm bớt sự phụ thuộc vào cái yếu tố như vị trí địa lý hay đặc thù quốc gia, thay vào đó họ có thể cung cấp dịch vụ của mình trên toàn cầu thông qua Internet. Sự linh hoạt mà số hóa mang lại trong việc phát triển mô hình kinh doanh kiểu mới này là cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng ra quốc tế một cách dễ dàng hơn.
Trong khi đó, ông Thomas Sim cho biết, chuyển đổi số là sự tích hợp toàn diện và sâu sắc của công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các khía cạnh của doanh nghiệp (vật lý, phương tiện, nội dung, báo cáo, quy trình, công cụ và hệ thống, v.v.), dẫn đến sự thay đổi cơ bản trong cách doanh nghiệp vận hành và tạo ra giá trị thông qua các mô hình kinh doanh sáng tạo (bao gồm sản phẩm mới và cách thức mới để tương tác với khách hàng); định hình lại các quy trình, mô hình kinh doanh và trải nghiệm của khách hàng để tận dụng tối đa khả năng kỹ thuật số; Cải thiện năng suất và tiết kiệm chi phí hơn.
Nghiên cứu của Trường Đại học Harvard đã chứng minh rằng chuyển đổi kỹ thuật số không chỉ mang lại thách thức cho các nhà quản lý mà còn mang đến các cơ hội lớn cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn so với các doanh nghiệp chưa áp dụng chuyển đổi số.
Chuyển đổi số trong lĩnh vực logistics sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận và triển khai nền tảng hậu cần thông minh sử dụng trí tuệ nhân tạo và thuật toán học máy (Zeneta, Freightos, Tradelens, NSWs); đồng thời có thể tối ưu hóa việc lập kế hoạch lộ trình, dự đoán mô hình nhu cầu, tự động hóa hoạt động của kho hàng và điều chỉnh linh hoạt mức tồn kho dựa trên biến động của nhu cầu.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có thể cách mạng hóa toàn bộ chuỗi cung ứng bằng cách nâng cao hiệu quả, giảm chi phí và mang lại trải nghiệm vượt trội cho khách hàng.
Ông Thomas Sim lưu ý, trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ xe không người lái sẽ đóng vai trò quan trọng trong cách vận hành logistics trong tương lai. Một số nhà cung cấp dịch vụ hậu cần đã sử dụng AI để theo dõi các đơn hàng tốt hơn và dự đoán các vấn đề liên quan đến vận tải trong chuỗi cung ứng. Các phương tiện tự lái, chẳng hạn như xe nâng không người lái, xe tải giao hàng và máy bay không người lái, có thể sẽ được sử dụng phổ biến hơn trong các nhà kho, đường cao tốc...
Hiện nay, nhu cầu về sử dụng công nghệ AI trong hoạt động logistics hiện đại đang ngày một gia tăng trên toàn cầu. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp logistics đang tận dụng các công cụ và hệ thống hỗ trợ AI để tối ưu hóa các khía cạnh khác nhau trong hoạt động của doanh nghiệp một cách hiệu quả, đáp ứng tốt hơn nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng.
Phó Chủ tịch cấp cao FIATA đánh giá, chuyển đổi kỹ thuật số trong lĩnh vực logistics là điều mấu chốt nhằm tăng trưởng kinh tế và hội nhập thương mại toàn cầu. Ở Việt Nam, các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam, trong đó Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có thể trở thành trung tâm logistics hàng đầu trong khu vực thông qua đầu tư chiến lược vào chuyển đổi kỹ thuật số và cơ sở hạ tầng cảng thông minh.
Ông Thomas Sim cho rằng, các bên liên quan, bao gồm chính phủ, khu vực tư nhân và các tổ chức phải hợp tác để thúc đẩy chuyển đổi số, đảm bảo tăng trưởng bền vững và toàn diện cho ngành logistics của Việt Nam.
CHUYỂN ĐỔI SỐ - NỀN TẢNG PHÁT TRIỂN LOGISTICS THÔNG MINH
Những năm qua, ngành dịch vụ logistics đã từng bước chuyển mình nhằm đáp ứng yêu cầu của thương mại nội địa và hoạt động xuất, nhập khẩu. Tuy nhiên, để hướng đến cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, gia tăng tính cạnh tranh, đáp ứng theo các chuẩn mực quốc tế thì phát triển logistics thông minh chính là chìa khóa.
Phiên thảo luận đầu tiên: CHUYỂN ĐỔI SỐ - NỀN TẢNG PHÁT TRIỂN LOGISTICS THÔNG MINH đã làm rõ những vấn đề này. Nhà báo Nguyễn Linh Anh - Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp điều phối phiên thảo luận.
Các diễn giả tham gia: Ông Nguyễn Hữu Hạnh - Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia, Bộ TT&TT; Ông Nguyễn Văn Thành - Giám đốc Sở Công Thương Hải Phòng; Ông Đào Trọng Khoa - Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp DV Logistics Việt Nam (VLA); Ông Phan Nguyễn Hải Hà - Cục Hàng hải Việt Nam, Bộ Giao thông Vận tải.
Chia sẻ tại phiên thảo luận, ông Nguyễn Hữu Hạnh - Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia cho biết, tại Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030", chuyển đổi số trong giao thông, logictics là 1 trong 5 lĩnh vực ưu tiên.
Trong đó đưa ra 3 nhiệm vụ chính là thông minh hóa hệ thống giao thông vận tải, thông minh hóa cảng nội thủy; thứ hai là thông minh hóa kết nối người bán người mua và thông minh hóa trong quản lý giao thông vận tải.
Bên cạnh đó trong 38 nền tảng số Quốc gia mà Bộ TT&TT đề nghị quan tâm triển khai, có 2 nền tảng liên quan trực tiếp đến logictics là nền tảng về cảng biển và cửa khẩu số. Bộ đóng vai trò tham mưu cùng các đơn vị trực tiếp triển khai chuyển đổi số các ngành.
Ông Nguyễn Văn Thành - Giám đốc Sở Công Thương Hải Phòng chia sẻ, TP Hải Phòng với điều kiện vị trí địa lý thuận lợi, tính đến năm 2023, trên địa bàn TP có đến 52 cảng biển và cảng đường sông - đây là điều kiện thuận lợi trong chuỗi logictics. Quan sát thực tế quản lý ở các doanh nghiệp, ông Thành cho biết hiện nay chúng ta chỉ mới đang quản lý qua hệ thống văn bản, hệ thống nội bộ theo cơ chế cũ, riêng về dữ liệu đang trong quá trình làm quen với Big data hay công nghệ AI.
Ông Thành cho biết, bước vào nền công nghiệp 4.0, nếu vẫn sử dụng văn bản như hiện nay để cơ quan quản lý nhà nước tra cứu văn bản đi – đến, những văn bản quy phạm pháp luật là khó và chịu chi phí rất lớn về giấy tờ mà yếu tố trọng tâm hiện nay trong logictics là giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, hiện nay cơ bản Sở Công thương các tỉnh thành cũng chưa có hệ thống phần mềm cơ sở dữ liệu để quản lý nhà nước trong logictics, do đó, vấn đề đặt ra là phải làm sao để tiến nhanh vào chuyển đổi số cho ngành logictics.
Từ 2022 đến nay Sở Công Thương Hải Phòng đã đề xuất xây dựng 3 đề án chuyển đổi số: Tạo lập cơ sở dữ liệu ngành Logictics; Sàn giao dịch trực tuyến Logictics và Chuyển đổi số liên ngành Logictics.
Nhằm kết nối các cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn Hải Phòng, trên cả nước và quốc tế, cũng như cũng cấp hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan của Việt Nam và quốc tế. Vấn đề đặt ra chuyển đổi số liên ngành đã được Sở Công Thương tham mưu và đã tạo lập một số nội dung, xây dựng đề án Tạo lập cơ sở giữ liệu và cơ bản hoàn thành sàn giao dịch Logictics trực tuyến.
Theo ông Thành, 3 đề án trên sẽ là bước đầu để chia sẻ dữ liệu của cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp. “Chúng tôi cũng đã có đề xuất Bộ Công Thương nhằm kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, Ban ngành cho phép chia sẻ dữ liệu và để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận chính sách” – ông Thành nói. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu đó, ông Thành cũng cho biết, cần sự đồng chia sẻ thông tin, dữ liệu từ các doanh nghiệp khi tham gia vào cơ sở dữ liệu chung của ngành, sàn giao dịch trực tuyến thì mới có thể chia sẻ đc cùng với cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp.
Ông Đào Trọng Khoa – Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) thông tin, thực trạng chuyển đổi số của ngành logistics ở mức độ thấp, theo thang 6 điểm thì thường các doanh nghiệp đang đứng ở thang số 1, số 2. Trong khảo sát của Hiệp hội với 464 doanh nghiệp cũng cho thấy chuyển đổi số mới chỉ ở mức độ 1 – 2 và 1/3 của chuyển đổi số - đây là một mức độ ứng dụng thấp. Thế nhưng, theo ông Khoa có một điểm đáng mừng đó là mức độ nhận thức của doanh nghiệp cao khi theo khảo sát có 79% doanh nghiệp cho rằng chuyển đổi số quan trọng, 75% cho rằng rất quan tâm tới chuyển đổi số…
Từ thực tế đã nêu, để thúc đẩy chuyển đổi số ngành logistics thì Chính phủ cần đóng vai trò “bệ đỡ” rất quan trọng, do đó, VLA đề xuất: Thứ nhất, cần phải có Chiến lược chuyển đổi số quốc gia cho ngành Logistics. Chiến lược này cần gắn liền với chiến lược chuyển đổi số ngành logistics mà Bộ Công Thương đang xây dựng.
Thứ hai, ban hành những chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp như thuế, tài chính, đào tạo để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào ứng dụng chuyển đổi số.
Thứ ba, hoàn thiện khung pháp lý, giải tỏa những e ngại cho doanh nghiệp trong ứng dụng chuyển đổi số. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về logistics để điều chỉnh các phương thức vận tải
Thứ tư, phát triển hạ tầng số, hạ tầng viễn thông bởi đây là nền tảng cho việc thúc đẩy phát triển chuyển đổi số…
Thứ năm, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số.
Thứ sáu, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp logistics và các doanh nghiệp công nghệ, các cơ quan quản lý liên ngành.
Thứ bảy, hỗ trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp chuyển đổi số. Bởi, hiện nay không nhiều doanh nghiệp có đủ lực về chi phí để thực hiện công tác chuyển đổi số.
Đồng tình với các ý kiến vừa chia sẻ tại phiên thảo luận, ông Nguyễn Hữu Hạnh - Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia nhận định chuyển đổi số trong ngành logistics chưa đạt được như kỳ vọng và cần xây dựng Chiến lược chuyển đổi số cho ngành logistics, trong đó làm rõ nội dung công việc và chủ thể thực hiện. Chuyển đổi số đem lại lợi ích cho cơ quan quản lý nhà nước (có số liệu để thực hiện công tác dự báo và tạo ra các giá trị mới); giảm chi phí cho doanh nghiệp và tạo trải nghiệm mới cho người sử dụng. Ngoài ra, đưa ra định hướng trong thời gian tới để các doanh nghiệp viễn thông đầu tư hạ tầng.
Chiến lược chuyển đổi số cho ngành logistics khi được xây dựng cần phân rõ từng nền tảng, mối liên hệ dữ liệu giữa các nền tảng, dữ liệu đầu ra và đầu vào được xác định cụ thể. Song song với việc xây dựng Chiến lược chuyển đổi số, do ngành logistics liên quan đến nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau nên cần xây dựng kiến trúc dữ liệu trong ngành để biết dữ liệu gồm những trường thông tin gì, lấy từ các nguồn có sẵn và chưa có sẵn. Chẳng hạn như dữ liệu về doanh nghiệp cần lấy từ cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp; dữ liệu cá nhân lấy từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư…
Trên cơ sở dữ liệu đã có, cần thực hiện liên thông dữ liệu, trong đó xác định dữ liệu chủ và dữ liệu phụ thuộc, kho dữ liệu cá nhân, của từng doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể tái sử dụng dữ liệu đã có.
Thời gian qua việc lấy dữ liệu của cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu chuyên ngành khá là khó khăn. Theo Nghị định số 47 năm 2020 của Chính phủ đã giao đơn vị chủ quản có trách nhiệm công bố và chia sẻ dữ liệu (trừ những dữ liệu bí mật), rất mong các doanh nghiệp, đơn vị xây dựng hệ thống chủ động liên hệ với các cơ quan chủ quản để khai thác dữ liệu.
Về hạ tầng, Bộ Thông tin và Truyền thông có hệ thống tích hợp chia sẻ dữ liệu quốc gia. Theo kiến trúc dữ liệu điện tử Chính phủ, toàn bộ dữ liệu “chạy” qua đây và hệ thống tích hợp chia sẻ dữ liệu quốc gia đảm bảo năng lực.
Chia sẻ tại phiên thảo luận, ông Phan Nguyễn Hải Hà - Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông Vận tải) cho biết, cơ chế ưu tiên phát triển cảng cửa ngõ quốc tế tại Hải Phòng theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Ngày 22/9/2021 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 1579/QĐ-TTg Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Và ngày 22/5/2024, Thủ tướng đã phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch trên, tuy nhiên trong cả 2 quyết định luôn xác định Hải Phòng là cảng đặc biệt quan trọng.Cảng Lạch Huyện và bến khởi động thuộc khu bến Nam Đồ Sơn là một trong các kết cấu hạ tầng ưu tiên phát triển trong thời kỳ 2021-2030 với chức năng kết hợp trung chuyển quốc tế cho cỡ tàu container sức chở đến 18.000 TEU (tương đương với trọng tải khoảng 250.000 tấn). Quyết định 1579 cũng đã xác định 6 nhóm giải pháp chính, trong đó có 1 nội dung xây dựng cảng biển gắn liền với phát triển đồng bộ các trung tâm phân phối hàng hóa, dịch vụ hậu cần sau cảng và logictics.
Theo đó, ngày 24/7/2023, Thủ tướng ban hành Quyết định 886/QĐ-TTg, trong đó có 8 nhóm giải pháp chính sách để thực hiện quy hoạch. Riêng với Hải Phòng, trong những năm gần đây, việc đầu tư phát triển bến cảng container tại khu vực cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng thuộc khu bến Lạch Huyện (cảng biển Hải Phòng) luôn được Bộ Giao thông vận tải thường xuyên quan tâm chỉ đạo và Cục Hàng hải Việt Nam tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng tại địa phương để rà soát, cập nhật quy mô, lộ trình phát triển khu bến cảng phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, điều kiện kết cấu hạ tầng giao thông vận tải kết nối tại khu vực (trong đó có tuyến đường giao thông sau các bến thuộc Khu bến cảng Lạch Huyện).
Đến nay, khu vực cảng biển Hải Phòng đã được đầu tư khai thác 50 bến cảng với tổng chiều dài cầu cảng khoảng 14,35 km trong tổng số 298 bến cảng tổng chiều dài cầu cảng khoảng 92,03 km thuộc hệ thống cảng biển Việt Nam. Sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển Hải Phòng liên tục tăng trưởng qua các năm và đã đạt mức 97,60 triệu tấn trong năm 2023. Việc triển khai thủ tục điện tử thông qua cơ chế 1 cửa quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi giảm thiểu thời gian, chi phí hành chính, thủ tục cho các tàu biển đến và rơi khu vực các năm qua liên tục tăng từ 16.000 – 17.000 thủ tục hành chính điện tử.
Tuy nhiên, một số khu bến cảng thuộc cảng biển Hải Phòng có vị trí tại vùng biển hở, đòi hỏi chi phí đầu tư lớn cho công tác san lấp, kết cấu hạ tầng phụ trợ (đê chắn sóng, kè chắn cát, luồng hàng hải…) như khu bến Lạch Huyện, khu bến Nam Đồ Sơn, Văn Úc.
Để phát huy và khắc phục những ưu thế, nhược điểm nêu trên và để cụ thể hóa Quyết định số 1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ, ông Hải Hà cho biết, hiện nay Cục Hàng hải Việt Nam đang triển khai lập Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (bao gồm cảng biển Hải Phòng trong Nhóm cảng biển số 1). Quá trình lập các quy hoạch nêu trên, các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển cảng biển Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 sẽ được Cục Hàng hải Việt Nam tiếp tục nghiên cứu, đề xuất, dự kiến hoàn thành vào giữa năm 2024 để báo cáo Bộ Giao thông vận tải, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Để thực hiện thành công nhiệm vụ nêu trên, Cục Hàng hải Việt Nam rất mong nhận được sự phối hợp, hỗ trợ về các thông tin, dữ liệu cần thiết cho công tác nghiên cứu, hoạch định phát triển cảng biển Hải Phòng từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan. Liên quan đến nội dung chuyển đổi số và các cảng trung chuyển quốc tế với mục tiêu các cảng mở, thông quan điện tử, ông Nguyễn Hải Hà cũng chung ý kiến với các diễn giả trước.
Bên cạnh kết cấu hạ tầng cảng biển thì cũng cần phải phát triển các vấn đề liên quan đến điện tử hóa công nghệ trong giám sát của Hải quan, thông quan điện tử, gắn thiết bị hành trình trên các phương tiện vận chuyển…hay việc chia sẻ thông tin là hết sức cần thiết để kết nối chia sẻ thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp, tạo điều kiện giảm thiểu thời gian, để các nhà sản xuất thúc đẩy hoạt động giao thương ở TP Hải Phòng.
“Để phát triển các khu bến cửa ngõ tại Hải Phòng, thì cần quan tâm, hỗ trợ từ các Bộ, ngành Trung ương, TP Hải Phòng về ưu tiên vốn ngân sách, thu hút đầu tư, ưu đãi sử dụng đất, bố trí tiếp nhận các chất nạo vét luồng lạch,…” – ông Hải Hà cho biết.
CƠ HỘI PHÁT TRIỂN BỨT PHÁ TỪ KHU THƯƠNG MẠI TỰ DO
Quy hoạch thành phố Hải Phòng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã định hướng thành lập Khu Kinh tế ven biển phía Nam Hải Phòng với diện tích 20.000ha, để tận dụng lợi thế cảng Nam Đồ Sơn và sân bay quốc tế Tiên Lãng.
Quy hoạch cũng định hướng sẽ thành lập Khu Thương mại tự do trong Khu kinh tế mới này. Để gợi mở những tiềm năng đầu tư, hợp tác, đề xuất những chính sách cho hình thành và phát triển khu thương mại tự do, phiên thảo luận: CƠ HỘI PHÁT TRIỂN BỨT PHÁ TỪ KHU THƯƠNG MẠI TỰ DO đã làm rõ vấn đề này.
Ông Phạm Hoài Chung - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải, Bộ Giao thông Vận tải điều phối phiên thảo luận.
Các diễn giả tham gia thảo luận: TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bà Phạm Thị Mỹ Lệ - Phó Giám đốc Maketting Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn; Bà Phạm Châu Giang - Giám đốc đối ngoại VinaCapital; Ông Nguyễn Hữu Hùng - Phó Chủ tịch HĐQT Công ty Công nghệ IOT Plus.
Chia sẻ tại phiên thảo luận, TS Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương khẳng định rằng việc định hướng thành lập các khu thương mại tự do là một bước đi đúng đắn để khai thác và thúc đẩy kinh tế từng vùng. Theo bà Minh, để các khu thương mại tự do hoạt động hiệu quả, cần nhiều yếu tố quan trọng.
Trên góc độ vĩ mô, bà Minh nhấn mạnh rằng các vùng kinh tế cần có chính sách thể chế và thực thi rõ ràng từ phía chính phủ, cũng như các văn bản pháp luật cụ thể để giúp địa phương dễ dàng triển khai. Những quy định và thể chế này sẽ tạo động lực để các khu vực thúc đẩy và vận hành các khu thương mại tự do một cách hiệu quả.
Về mặt logistic, dù Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể trong những năm gần đây nhưng so với các quốc gia khác thì chúng ta vẫn cần nỗ lực hơn nữa. Bà Minh cho rằng Chính phủ cần đưa ra các quy định và tiêu chí rõ ràng liên quan đến những nội dung như thông tin, chứng thư điện tử hay thương mại xuyên biên giới để doanh nghiệp có thể tận dụng và phát huy tối đa khả năng của mình.
Về mặt nguồn lực, theo bà Minh, Việt Nam đang chưa tận dụng được tối đa hiệp định FTA đối với lĩnh vực trên. Bà cho rằng đất nước ta hoàn toàn có thể tận dụng yếu tố hỗ trợ nguồn lực trong hiệp định để có thể giúp doanh nghiệp chuyển đổi số thuận lợi hơn nữa.
Hải Phòng là địa phương có nhiều lợi thế để phát triển lĩnh vực logistics và khu thương mại tự do, do đó cần tận dụng lợi thế về địa lý và nhân lực. “Với những tài nguyên có sẵn như cảng nước sâu và cảng biển truyền thống, đồng thời với nhiều kết quả tích cực trong kết quả trung chuyển hàng hóa và môi trường logistics trong khu vực, thì Hải Phòng hoàn toàn có thể trở thành thành phố vượt trội trong lĩnh vực này” – bà Minh nói.
Theo bà Minh, việc học hỏi từ các quốc gia khác là vô cùng cần thiết, đặc biệt là Trung Quốc với tốc độ thành lập khu thương mại thần tốc của họ. Nếu muốn đạt được những kết quả tích cực, Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng cần tận dụng tối đa lợi thế về thời gian vì đây là một trong những nguồn lực quý báu cho giải pháp mà ta đang thực hiện.
Bà Phạm Thị Mỹ Lệ - Phó Giám đốc Marketing, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn chia sẻ, từ 2008, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn (TCSG) đã đưa vào vận hành thành công hệ thống TOPX trong khai thác cảng, từ đó tới nay, doanh nghiệp cũng đã liên tục cập nhật và nâng cao các ứng dụng chuyển đổi số với mục tiêu lấy khách hàng làm trung tâm.
Hệ thống TOPX quản lý điều hành cảng trên nền tảng công nghệ hiện đại, đưa công tác lập kế hoạch, điều hành sản xuất theo thời gian thực, quản lý chính xác vị trí container theo 3 chiều không gian đã nâng cao năng suất xếp dỡ, giao nhận hàng hóa, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Năng suất làm hàng lên gấp 3 lần so với khi chưa áp dụng phần mềm, điều này đã đưa Tân cảng Cát Lái tự hào là cảng đầu tiên và duy nhất của Việt Nam ứng dụng thành công công nghệ thông tin trong quản lý, khai thác cảng vào thời điểm đó, và đưa cảng tiến vào TOP 20 cảng container lớn nhất thế giới về sản lượng container thông qua…
Tiếp nối thành công TOPX, phân hệ phần mềm Quản lý cảng container TOPOVN được đưa vào hoạt động từ tháng 02/2015. Việc đưa vào sử dụng TOPOVN đã góp phần hoàn chỉnh hệ thống Quản lý và điều hành khai thác cảng container trên nền công nghệ TOPS (TOPS=TOPX+TOPOVN). Phần mềm TOPO là phần mềm do đội ngũ nhân sự CNTT nội bộ xây dựng, phù hợp với nhu cầu quản lý riêng của TCSG, được liên tục nâng cấp, điều chỉnh một cách linh hoạt để đáp ứng các yêu cầu thay đổi của thị trường, khách hàng,… Ứng dụng thành công hệ thống TOPS đã góp phần không nhỏ giúp TCSG thành công ở trụ cột kinh doanh khai thác cảng và là nhà khai thác cảng lớn và hiện đại nhất Việt Nam.
Tháng 08/2022, TCSG ứng dụng SNP ePort được chính thức ra mắt, là bước đi quan trọng trong lộ trình xây dựng Super Mobile App trong hệ sinh thái eSNP... Cùng với cảng điện tử ePort, TCSG đã triển khai thành công lệnh giao hàng điện tử eDO góp phần rút ngắn thời gian làm thủ tục; tiết kiệm chi phí cho các doanh nghiệp; chi phí chung cho xã hội; giảm tình trạng ùn tắc giao thông khu vực trong và ngoài cảng Tân Cảng Cát Lái, là tiền đề xây dựng Cảng Tân Cảng Cát Lái thành cảng xanh, hiện đại…
Cũng theo bà Mỹ Lệ, để phát triển ngành logistics phát triển hiện đại, bền vững, trước những yêu cầu phát triển xanh, bền vững, đặc biệt trong ngành logistics, Nhà nước và các địa phương cần xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, đẩy nhanh tiến độ các dự án kết nối hạ tầng giao thông, kết nối đa phương thức tạo thuận lợi phát triển dịch vụ logistics, tăng cường đầu tư vào hạ tầng hậu cần và kho bãi để tăng cường hệ sinh thái logistics, tháo gỡ các “nút thắt” về giao thông để việc kết nối, vận chuyển hàng hóa được thuận lợi, đẩy mạnh liên kết vùng, giảm chi phí logistics cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, cần đơn giản hóa thủ tục, xây dựng và kết nối cơ sở dữ liệu dùng chung, tiến tới số hóa và giải quyết các thủ tục trực tuyến.
Hệ thống cơ sở pháp lý cũng cần được cập nhật theo kịp các xu hướng công nghệ nhằm khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, phát triển các dịch vụ, công nghệ mới.
Tại Diễn đàn, ông Nguyễn Hữu Hùng - Phó Chủ tịch HĐQT công ty công nghệ IOT Plus đã chia sẻ nhiều giải pháp công nghệ cho doanh nghiệp chuyển đổi số và doanh nghiệp chuyển đổi số thường nghĩ làm dự án phần mềm hoặc đầu tư nhiều nguồn lực. Tuy nhiên, để chuyển đổi số thành công cần 3 phần, trong đó quan trọng nhất là chiến lược của doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá thị trường, nghiên cứu khách hàng; đánh giá lại con người, hạ tầng, sản xuất dịch vụ; ứng dụng công nghệ.
Ông Hùng cho biết, chuyển đổi số là một lộ trình, qua thực tế chuyển đổi số cho các cảng và doanh nghiệp logistics, chúng tôi có nhiều giải pháp, thiết bị, robot cứng và robot mềm. Để thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp logistics, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia, các bộ ngành cần xây dựng Chiến lược chung cho ngành để gắn kết hệ sinh thái của ngành, giúp ngành tăng sức cạnh tranh. “Trên thị trường không thiếu các giải pháp công nghệ, vấn đề thiếu ở đây là sự quyết tâm và chiến lược đúng đắn” – ông Hùng nói.
Đặt vấn đề về việc các doanh nghiệp rất khát khao được hỗ trợ về nguồn lực trong chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, ông Phạm Hoài Chung – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và phát triển Giao thông vận tải, Bộ Giao thông Vận tải đề nghị bà Giang có thêm những chia sẻ trên cơ sở là quỹ đầu tư quốc tế.
Bà Phạm Châu Giang – Giám đốc đối ngoại VinaCapital cho hay, từ góc độ quỹ đầu tư quốc tế trên thực tế trong tất cả các nhà đầu tư quốc tế trong lĩnh vực logictics thì thị trường Việt Nam là rất tiềm năng và đáng để đầu tư. Hiện giờ các tập đoàn quốc gia đang cân nhắc các nước là Việt Nam, Malaixia, Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Philippines,... chính vì thế đón đầu việc chúng ta có những tiềm năng rất lớn.
VinaCapital cũng đã kết hợp cùng A.P. Moller Capital thành lập nền tảng mở rộng đầu tư logistics ở Việt Nam với số vốn là trên 300 triệu USD. Theo đó, 2 đơn vị lên kế hoạch đầu tư vào các công ty logictics đầu ngành trong lĩnh vực khác nhau, cùng họ đó nâng cấp, đầu tư thêm vốn để thực hiện quá trình chuyển đổi số nhằm tích hợp các dịch vụ cung cấp các dịch vụ toàn diện hơn cho khách hàng.
Thứ hai là quỹ cũng đầu tư vào những tài sản yêu cầu vốn rất lớn, tài sản đầu sẽ nâng cấp, cải tạo để có thể trở thành những sản phẩm dùng chung, tiết kiệm chi phí trên một khách hàng sử dụng, đồng thời số hóa những điều đó.
Thứ ba là đầu tư những doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ logictics để cung cấp vốn cho họ đi cùng họ triển khai quá trình sinh hóa, số hóa vì trên thực tế hiện nay tất cả các khách hàng đều yêu cầu vì xanh hóa và số hóa.
Tuy nhiên, theo bà Giang, bên cạnh những thuận lợi thì thời gian và thủ tục đang là những yếu tố cản bước đầu tư tại Việt Nam. Đơn cử, phần lớn các dự án mà VinaCapital đang đàm phán để đầu tư đều gặp những rắc rối về pháp lý. Trong khi đó, về thủ tục pháp lý, từ khi có ý tưởng về mặt chính sách cho đến khi chính sách được đi vào thực tiễn có khi mất đến khoảng hai năm hoặc lâu hơn thế.
“Các khách hàng quốc tế nhận định rằng 2024 là năm bản lề để Việt Nam thu hút đầu tư từ các công ty đa quốc gia, khi họ ra quyết định lựa chọn “tổ ấm” thứ hai ngoài Trung Quốc. Thế nhưng, chính sách mới của Việt Nam có thể đến năm 2025 mới có hiệu lực, nếu như vậy chúng ta có thể bỏ lỡ cơ hội” – bà Giang nói.
Theo đó, đại diện VinaCapital kiến nghị đẩy nhanh thời hiệu các chính sách mới và rút ngắn thời gian đề xuất, xây dựng cũng như ban hành các chính sách mới.
Trong khuôn khổ diễn đàn, đã diễn ra Lễ Ký kết hợp tác giữa Hiệp hội Logistics Việt Nam và ngân hàng TNHH MTV United Overseas Bank (Việt Nam).
MOU này hướng tới việc chia sẻ các hiểu biết sâu sắc và thúc đẩy đổi mới sáng tạo cho các thành viên của Hiệp hội Doanh nghiệp Logistics Việt Nam (VLA) và các đối tác liên quan trong chuỗi cung ứng. VLA cũng sẽ phối hợp với UOB tổ chức các sự kiện, hoạt động và buổi chia sẻ phù hợp trong ngành nhằm mục đích thúc đẩy đổi mới, hỗ trợ hoạt động thương mại quốc tế và kinh doanh xuyên biên giới. Trong những năm tới, VLA sẽ đẩy mạnh các giải pháp chuyển đổi số và phát triển bền vững, thực hiện các giải pháp có tính đột phá để nâng cao hiệu suất, năng suất, hiệu quả cho các nhà cung cấp dịch vụ và khách hàng của chúng tôi. Trong đó việc tích hợp và tối ưu hoá các hoạt động mua bán – vận chuyển – Thanh toán trên các nền tảng dịch vụ chung sẽ là biện pháp chính.
Phát biểu kết luận Diễn đàn, ông Nguyễn Quang Vinh – Bí thư Đảng uỷ, Phó Chủ tịch VCCI khẳng định: Diễn đàn năm nay có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh mới, khi cả nước nói chung và các địa phương trong Vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng đang tích cực đẩy mạnh chuyển đổi số để phát triển kinh tế số, xã hội số. Đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Theo Phó Chủ tịch VCCI, “bên cạnh việc chuyển đổi số, chuyển đổi xanh cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Đây chính là chuyển đổi kép để phát triển nền kinh tế”. Phó Chủ tịch VCCI nhấn mạnh, để thực hiện chuyển đổi số, chuyển đổi xanh cần chú trọng phát triển nguồn lực. Vốn con người là một trong ba nguồn vốn quý nhất của doanh nghiệp bao gồm vốn tài chính, vốn xã hội (bao gồm vốn con người) và vốn tự nhiên.
“VCCI sẽ xây dựng báo cáo trực tiếp ghi rõ các đề xuất, kiến nghị này tới Chính phủ và các cơ quan chức năng để gắn chuyển đổi xanh, chuyển đổi số nhằm phát triển mạnh mẽ ngành logistics trong thời gian tới” – Phó Chủ tịch VCCI khẳng định.
Có thể bạn quan tâm
16:47, 28/05/2024
16:10, 28/05/2024
15:32, 28/05/2024
15:10, 28/05/2024
15:08, 28/05/2024
14:28, 28/05/2024
13:30, 28/05/2024