Muốn hưởng lợi từ CPTPP, hàng hoá sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt phải đáp ứng các điều kiện về xuất xứ nguyên liệu, môi trường, sở hữu trí tuệ… đặc biệt quy tắc về lao động.
Nhiều chuyên gia nhận định, năm 2019 là năm Việt Nam bắt đầu thực thi nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA), ngành dệt may có thêm nhiều cơ hội cũng như thách thức để tăng trưởng. Thách thức ở chỗ, nếu các doanh nghiệp trong ngành không đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ khó cạnh tranh được với các sản phẩm đến từ các nước tham gia Hiệp định.
Theo đó, các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA có ý nghĩa đặc biệt đối với ngành dệt may vì giúp thuế quan giảm, đa dạng hóa thị trường và sản phẩm xuất khẩu.
Ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệp May Việt Nam, dệt may là ngành công nghiệp đứng đầu cả nước về thu dụng lao động với khoảng 2,7 triệu người.
Trong gần 30 năm qua, dệt may Việt Nam đã phát triển từ con số 0 lên đến hơn 36 tỷ USD năm 2018. Một trong những yếu tố làm lên thành công của ngành chính là lợi thế về lực lượng lao động dồi dào, phù hợp cho sự phát triển dệt may. Chi phí nhân công so với các nước như Trung Quốc, Indonesia... đều đang thấp hơn.
Tuy nhiên, lợi thế nhân công giá rẻ không còn có ý nghĩa lớn với ngành dệt may trong tiến trình thực hiện các cam kết trong CPTPP. Tại sao vậy? Bởi trong CPTPP hàng hoá sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện về xuất xứ nguyên liệu đầu vào, môi trường, sở hữu trí tuệ… đặc biệt quy tắc về lao động trong CPTPP.
“Trình độ lao động của ngành dệt may hiện không cao, khoảng 76% là lao động phổ thông, lực lượng đào tạo bài bản tức từ sơ cấp lên trung cấp chuyên nghiệp chỉ gần 20% và lực lượng cao đẳng - đại học trên chỉ chiếm 6,8%”, ông Cẩm cho biết.
Đặc biệt, không chỉ lo ngại về vấn đề chất lượng lao động thấp sẽ ảnh hưởng tới quá trình cạnh tranh trong bối cảnh xoá bỏ thuế quan của CPTPP. Doanh nghiệp dệt may còn đặc biệt lo ngại những nội dung về quyền lao động cũng như bảo vệ tính bền vững của môi trường, giúp người lao động và doanh nghiệp cùng được hưởng lợi ích kinh tế một cách công bằng tại CPTPP.
Có thể bạn quan tâm
13:05, 29/05/2019
14:33, 23/05/2019
07:24, 23/05/2019
04:50, 21/05/2019
10:22, 12/05/2019
15:30, 09/05/2019
11:00, 07/05/2019
06:16, 06/05/2019
00:44, 06/05/2019
16:00, 03/05/2019
Theo đó, Hiệp định này không đưa ra tiêu chuẩn riêng mà chỉ áp dụng theo các tiêu chuẩn về lao động đã được nêu trong Tuyên bố năm 1998 về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của ILO.
Theo đánh giá của Vụ Chính sách thương mại đa biên, trên thực tế Việt Nam đã và đang thực hiện các quy định của ILO theo kế hoạch chủ động của mình. Về những nội dung liên quan đến xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động trẻ em, xóa bỏ phân biệt đối xử trong lao động, cơ bản hệ thống pháp luật của Việt Nam đã phù hợp với các tiêu chuẩn của ILO và cam kết của hiệp định. Cụ thể, thể hiện trong 8 công ước cơ bản, bao gồm các nội dung về: quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người lao động và người sử dụng lao động; xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc; cấm sử dụng lao động trẻ em, xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp.
Việt Nam hiện đã và đang triển khai một số chương trình hành động quốc gia để thực thi các tiêu chuẩn trên trong thực tiễn. Bên cạnh đó, đối với cam kết về đảm bảo điều kiện lao động liên quan tới lương tối thiểu, giờ làm việc và an toàn lao động, hệ thống luật pháp của Việt Nam cũng cơ bản đã quy định đầy đủ về những nội dung này nên không có yêu cầu về việc sửa đổi, bổ sung.
Tuy nhiên, hiện Việt Nam vẫn chưa phê chuẩn ba công ước cơ bản (Công ước số 87, 98 và 105) liên quan đến tự do liên kết, quyền thương lượng tập thể và loại bỏ lao động cưỡng bức.
Do đó, để đạt được điều này đòi hỏi Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý và hệ thống quan hệ lao động, phục vụ nhu cầu của người lao động, doanh nghiệp.
Cùng với đó, để người lao động Việt Nam có nhiều cơ hội việc làm, lựa chọn nghề nghiệp, điều kiện lao động, thu nhập, đời sống được nâng cao hơn, được bảo vệ và bình đẳng với người lao động các quốc gia khác, thì lực lượng lao động của Việt Nam cần được đào tạo để có kỹ năng nghề, công nghệ thông tin, đặc biệt khi vào giai đoạn công nghiệp 4.0. Nếu không đáp ứng được yêu cầu, nguy cơ không có việc làm, thất nghiệp của người lao động là rất lớn, luôn có thể đến với cá nhân, nhóm người, thậm chí cả doanh nghiệp.
"Muốn tận dụng được các điểm của Hiệp định CPTPP cần chú trọng đến đào tạo nguồn nhân lực", ông Cẩm khẳng định.