Đối ngoại

“Đòn bẩy” chính sách đầu tư cho Việt Nam và Lào

Phạm Trí Hùng, Trường Đại học Luật TPHCM và Bùi Minh Toàn, Đại học DePauw, Hoa Kỳ 09/09/2024 04:00

Nghiên cứu so sánh cho thấy, chính sách đầu tư của Việt Nam và Lào có những điểm tương đồng, khác biệt nhất định.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith ẢNH: TTXVN
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Thongloun Sisoulith ẢNH: TTXVN

Vấn đề nổi lên hiện nay là làm thế nào để chính sách được thể hiện trong các văn bản luật và văn bản hướng dẫn thực thi được đưa nhanh vào đời sống kinh tế - xã hội, được thực thi nghiêm chỉnh trong các cấp, các ngành, trở thành động lực tăng trưởng kinh tế, thu hút và sử dụng vốn đầu tư có chất lượng hơn.

Nghiên cứu so sánh chính sách đầu tư

Ở Việt Nam, căn cứ theo mục đích và nguồn vốn đầu tư, hoạt động đầu tư được chia thành đầu tư kinh doanh, đầu tư công, đầu tư theo phương thức đối tác công tư. Chính sách về đầu tư kinh doanh của Việt Nam được thể hiện trong Điều 5 Luật Đầu tư 2020, bao gồm các nguyên tắc chính:

Thứ nhất, nhà đầu tư có quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề mà Luật này không cấm. Đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì nhà đầu tư phải đáp ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, nhà đầu tư được tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về hoạt động đầu tư kinh doanh; được tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ, sử dụng đất đai và tài nguyên khác theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, nhà đầu tư bị đình chỉ, ngừng, chấm dứt hoạt động đầu tư kinh doanh nếu hoạt động này gây phương hại hoặc có nguy cơ gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia.

Thứ tư, Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu về tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư.

Thứ năm, Nhà nước đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư; có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, phát triển bền vững các ngành kinh tế.

Thứ sáu, Nhà nước tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về đầu tư mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên.

Trong khi đó, CHDCND Lào không có sự phân chia đầu tư kinh doanh, đầu tư công, đầu tư theo phương thức đối tác công tư và khẳng định ngay từ tên gọi của văn bản luật về đầu tư là Luật Khuyến khích đầu tư. Điều 4 (Sửa đổi) của Luật Khuyến khích đầu tư năm 2016, nêu rõ Chính sách của Chính phủ về khuyến khích đầu tư bao gồm: (i) Chính phủ khuyến khích đầu tư của mọi thành phần kinh tế, cả trong nước và nước ngoài, bằng cách xây dựng các chính sách tạo môi trường đầu tư thuận lợi, bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp thông tin cần thiết, cấp các ưu đãi về thuế hải quan, thuế, cho phép lao động nước ngoài , tiếp cận tài chính và quyền sử dụng đất; (ii) Chính phủ đối xử bình đẳng và thừa nhận quyền sở hữu, quyền hưởng dụng, quyền thừa kế, quyền chuyển nhượng và các quyền khác theo quy định của pháp luật; (iii) Chính phủ thúc đẩy đầu tư vào mọi lĩnh vực, hoạt động kinh doanh và trong các lĩnh vực trên toàn quốc, trừ các lĩnh vực và hoạt động kinh doanh gây phương hại đến an ninh quốc gia, môi trường tự nhiên hiện tại và lâu dài, sức khỏe cộng đồng và văn hóa dân tộc tốt đẹp; (iv) Chính phủ cũng cung cấp các ưu đãi đặc biệt cho các lĩnh vực ưu tiên tại một quy định riêng.

Điều 5 (Sửa đổi) của Luật Khuyến khích đầu tư CHDCND Lào năm 2016 đưa ra các nguyên tắc khuyến khích đầu tư bao gồm: (i) Phù hợp với định hướng, chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, quy hoạch phát triển ngành, địa lý, vùng và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, nâng cao đời sống của nhân dân, tuân thủ các quy định pháp luật; (ii) Thống nhất tăng cường quản lý nhà nước tập trung trên toàn quốc gia; (iii) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tập thể, nhân dân và nhà đầu tư; (iv) Bảo đảm dịch vụ đầu tư một cửa được cung cấp một cách thuận tiện, nhanh chóng, minh bạch, hiệu quả và đúng pháp luật; (v) Bảo đảm cạnh tranh kinh doanh lành mạnh; (vi) Bảo đảm an ninh quốc gia, hòa bình và trật tự công cộng, nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc Lào, bảo vệ và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tuân thủ chính sách tăng trưởng xanh và bền vững.

Như vậy, có thể thấy chính sách về đầu tư kinh doanh của Việt Nam và chính sách khuyến khích đầu tư của Lào đều được công khai, minh bạch trong các văn bản luật; tuy nhiên văn bản luật của Lào thể hiện rõ và cụ thể nội dung khuyến khích đầu tư (trong khi văn bản luật của Việt Nam chỉ nêu chung là “Nhà nước có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh”) và đặc biệt thể hiện rõ nội dung bảo đảm an ninh quốc gia, môi trường tự nhiên và văn hóa dân tộc.

Ở đây có điểm cần lưu ý, khác với các nước trên thế giới, bên cạnh chính sách về đầu tư kinh doanh trong Luật Đầu tư 2020, chính sách đầu tư của Việt Nam còn được thể hiện trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, đặc biệt liên quan đến đầu tư nước ngoài có Nghị quyết 50-NQ/TW ngày 20/08/2019 của Bộ Chính trị “Về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030”, trong đó có những quan điểm chỉ đạo như: Chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu; Bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, an sinh, trật tự, an toàn xã hội và nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

Như vậy, có thể thấy chính sách đầu tư của Việt Nam là thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc (Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu), tránh tình trạng dự án quy mô nhỏ, công nghệ thấp, thâm dụng lao động còn lớn, phân bố không đều, tỉ trọng đóng góp ngân sách Nhà nước có xu hướng giảm.

Hoàn thiện và thực thi chính sách đầu tư

Bối cảnh môi trường kinh doanh quốc tế và đầu tư xuyên biên giới thay đổi nhanh và phức tạp, cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng quyết liệt với những động thái mạnh mẽ trong việc thu hút và duy trì vốn FDI đã và đang tạo sức ép và động lực cần thiết để Việt Nam thực hiện cải cách chính sách đầu tư nói chung và chính sách ưu đãi đầu tư nói riêng.

Tại Hội nghị Hợp tác đầu tư Việt Nam-Lào, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, mỗi chương trình, dự án hợp tác không chỉ có ý nghĩa đơn thuần về kinh tế mà có ý nghĩa chính trị sâu sắc - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Tại Hội nghị Hợp tác đầu tư Việt Nam-Lào, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, mỗi chương trình, dự án hợp tác không chỉ có ý nghĩa đơn thuần về kinh tế mà có ý nghĩa chính trị sâu sắc - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tại Mục 5 Nghị quyết số 110/2023/QH15 ngày 29/12/2023 Kỳ họp thứ 6, Quốc hội CHXHCN Việt Nam Khóa XV, Quốc hội đã đồng ý chủ trương, giao Chính phủ trong năm 2024 rà soát tổng thể để hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính sách, pháp luật về khuyến khích đầu tư, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng Dự thảo "Báo cáo rà soát đánh giá tổng thể về chính sách khuyến khích đầu tư tại Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị" với kiến nghị nổi bật là đưa ra các chính sách ưu đãi đầu tư đột phá, có trọng tâm, trọng điểm, mang tính sàng lọc để lựa chọn các nhà đầu tư chiến lược, các dự án đầu tư có chất lượng cao, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao, R&D, bảo vệ môi trường...; danh mục ngành, nghề được áp dụng ưu đãi cũng phải có tính chọn lọc gắn với các lợi thế và định hướng ưu tiên chiến lược của quốc gia.

Việt Nam được xác định là nước có thế mạnh về an ninh và sự ổn định chính trị, vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao thương và cung ứng, độ mở của nền kinh tế lớn với 15 Hiệp định thương mại tự do có hiệu lực, cho phép Việt Nam có thể theo đuổi các chính sách để thu hút nhóm các tập đoàn đa quốc gia quy mô lớn, có năng lực sản xuất và liên kết chặt chẽ với chuỗi giá trị toàn cầu.

Thể chế hóa chính sách đầu tư của CHDCND Lào, pháp luật đầu tư của Lào được đánh giá là linh hoạt hơn pháp luật đầu tư Trung Quốc hay Việt Nam với nét đặc biệt là cho phép doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Lào. Và Lào cũng được Báo cáo của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển xếp vào 1 trong 37 quốc gia trên thế giới trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến năm 2022 đã đưa ra khung pháp lý mới để rà soát FDI nhằm bảo đảm an ninh quốc gia (Việt Nam chưa được đưa vào Báo cáo này).

Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, vẫn còn sự giám sát chặt chẽ hơn của cơ quan chức năng đối với nhiều hoạt động liên quan đến đầu tư nước ngoài, chính quyền địa phương vẫn đưa ra một số quyết định tùy ý, mặc dù đã có cam kết từ chính quyền địa phương với cơ quan có thẩm quyền nhằm giảm bớt các loại quy định. Luật Khuyến khích đầu tư 2016 là văn bản pháp luật đưa ra các quy tắc chung, cốt lõi áp dụng cho đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, nhưng chính quyền địa phương vẫn có thể bổ sung các yêu cầu đối với đầu tư nước ngoài thông qua các quy định liên quan đến đầu tư vào ngành, lĩnh vực cụ thể.

Tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội CHDCND Lào Khóa IX tháng 7/2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Dự thảo Luật Khuyến khích đầu tư sửa đổi; trong đó nêu rõ, cần phải tiến hành sửa đổi nội dung Luật Khuyến khích đầu tư ban hành năm 2009, sửa đổi năm 2016 để bảo đảm phù hợp với nhu cầu thực tế và thực trạng phát triển đất nước. Dự thảo Luật Khuyến khích đầu tư sửa đổi quy định nguyên tắc quy chế, biện pháp về hoạt động khuyến khích đầu tư, quản lý đầu tư trong và ngoài nước để hoạt động đầu tư diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, minh bạch, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của nhà nước, người dân và các nhà đầu tư, có thể kết nối với các nền kinh tế khu vực và quốc tế, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội đất nước, không ngừng tăng trưởng theo hướng xanh và bền vững.

Khuyến nghị chính sách

Cả Việt Nam và Lào đều đánh giá hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chính sách đầu tư được định hướng nhằm khuyến khích đầu tư, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Trong bối cảnh môi trường đầu tư kinh doanh quốc tế thay đổi mạnh mẽ, trên cơ sở phân tích chính sách và thực tiễn thực thi chính sách đầu tư của Việt Nam và Lào, nhóm tác giả xin đưa ra một số kiến nghị chính sách và thực thi chính sách như sau:

Thứ nhất, chính sách khuyến khích đầu tư cần xác định là các ưu đãi không phải là yếu tố quyết định mà để đảm bảo được tính hiệu quả của các chính sách ưu đãi thì các yêu cầu về đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, sự ổn định và minh bạch của thể chế có ý nghĩa rất quan trọng.

Với thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu (một trong hai trụ cột chính của Chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận (Base erosion and profit shifting - BEPS) do Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) khởi xướng, ưu đãi thuế sẽ không còn là lợi thế để thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới. Việt Nam cần phải tìm tới các công cụ khác đủ sức hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, như duy trì một môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định và an toàn; giảm bớt gánh nặng về chi phí thủ tục hành chính; tăng cường sự minh bạch; giảm các chi phí sản xuất thông qua các hỗ trợ kỹ thuật ở các khía cạnh thích hợp…

Như vậy, Việt Nam sẽ phải bắt tay ngay vào việc rà soát, điều chỉnh chính sách thu hút FDI theo hướng đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng, hỗ trợ thiết lập hệ thống các doanh nghiệp vệ tinh, phụ trợ…. là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết định đầu tư kinh doanh, thay vì chỉ tập trung vào các ưu đãi về thuế như trước.

CHDCND Lào không phải là thành viên của Hiệp định nhằm ngăn ngừa xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển dịch lợi nhuận (MLI) và bối cảnh liên quan thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu không ảnh hưởng đến các ưu đãi thuế trong chính sách khuyến khích đầu tư của Lào, nhưng vẫn cần đảm bảo yêu cầu về ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.

Thứ hai, chính sách đầu tư của cả Việt Nam và Lào đều không nên xác định dàn trải mà nên dựa trên phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức (Phân tích SWOT) với chiến lược cụ thể. Ví dụ để hướng đến nhóm các tập đoàn đa quốc gia quy mô lớn hay hướng đến các nhà đầu tư trong khu vực, không nên đưa ra mục tiêu chung chung, tràn lan và xác định thành quả thu hút FDI chỉ qua tổng số vốn đăng ký.

Thứ ba, để cụ thể hóa chính sách đầu tư, Việt Nam cần sớm ban hành Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả FDI để khắc phục tình trạng một số địa phương, Ban Quản lý Khu công nghiệp, Khu chế xuất còn thiếu quan tâm lựa chọn dự án, nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng thu hút và sử dụng FDI. Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đã đề xuất Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài gồm 36 chỉ tiêu (trong đó có 25 chỉ tiêu về kinh tế, 7 chỉ tiêu về xã hội và 4 chỉ tiêu về môi trường) và dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Quy định về Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng thu hút và hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài tại địa phương, Viện Nghiên cứu Đầu tư quốc tế (ISC) cũng đã phối hợp với Đại sứ quán Australia tại Hà Nội công bố 2 Bộ tiêu chí về thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh và về giám sát, đánh giá hiệu quả FDI trên địa bàn tỉnh. Bộ tiêu chí được công bố không mang tính chất văn bản quy phạm pháp luật hay văn bản chỉ đạo điều hành mà chỉ là tài liệu tham khảo trong quá trình quản lý, chỉ đạo điều hành hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài của các địa phương. Trên cơ sở kinh nghiệm của Việt Nam, Lào cũng có thể xây dựng bộ tiêu chí tương tự có cập nhật điều kiện cụ thể của Lào để cụ thể hóa chính sách khuyến khích đầu tư và đánh giá hiệu quả chính sách.

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
“Đòn bẩy” chính sách đầu tư cho Việt Nam và Lào
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO