Cách mạng tháng 8/1945 thắng lợi, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nhà nước của giai cấp công nhân và nông dân đầu tiên ở Đông Nam Á mang ý nghĩa thời đại lớn lao.
>>Chủ tịch Hồ Chí Minh và bài học vĩ đại: Đoàn kết để trường tồn
Chủ nghĩa Tư bản sau gần 1 thế kỷ phát triển, bành trướng toàn cầu, đã biến hầu hết lục địa châu Á, châu Phi và Nam Mỹ thành địa bàn khai thác tài nguyên, thị trường tiêu thụ. Sự phát triển đó đã đạt đến giới hạn và biểu hiện bằng khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 ở châu Âu và Bắc Mỹ.
Cuộc “đại khủng hoảng” một phần thể hiện điểm yếu không thể sửa chữa trong hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa; phần lớn do áp lực từ các phong trào đấu tranh, giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Trừ Liên Xô, những quốc gia được dẫn đắt bởi lý luận Marx-Lenin như Việt Nam, Cuba, Trung Quốc, Triều Tiên,… lần lượt giành được độc lập trong vòng 10 năm sau khi thế chiến II kết thúc.
Thực tiễn đó cho thấy, Đệ tam quốc tế được sáng lập bởi Lenin, tiếp nối cho đến Stalin đã khẳng định được “tính tất yếu” trong đời sống chính trị quốc tế. Một làn gió mới song song với thiết chế tư bản đã hình thành và phát triển đến đỉnh cao lúc bấy giờ.
Trong đó, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời và bản “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là khoảnh khắc lịch sử, đóng vai trò mào đầu cho khuynh hướng XHCN phát triển nhanh, mạnh ngoài lục địa châu Âu.
Thứ nhất, bản thân cách mạng Việt Nam là một quá trình tìm tòi, bắt gặp và áp dụng thành công luận cương của Lenin về vấn đề “Dân tộc và thuộc địa” được rút ra từ chủ nghĩa Marx, bao gồm Triết học, Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong đó, Chủ nghĩa xã hội khoa học cung cấp phương pháp đấu tranh, cách thức tổ chức và xây dựng lực lượng cách mạng. Sau khi thắng lợi, hệ thống lý luận này cung cấp mô hình tổ chức nhà nước, hệ thống chính trị; xác định rõ vị trí, vai trò của các giai tầng trong nhà nước ấy.
Ví dụ, cách mạng muốn thành công - nhất thiết phải tập hợp đông đảo giai cấp nông dân, giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức; tìm cách trung hòa, thuyết phục các giai tầng trung gian hoặc đối lập. Có thể hiểu vì sao các nhà tư sản phát lòng yêu nước, tận hiến cho cách mạng.
Hệ thống khoa học kinh tế chính trị Maxr-Lenin đưa ra mô hình kinh tế phù hợp với thiết chế chính trị đã hình thành, bằng cách nghiên cứu tường tận cơ cấu kinh tế tư bản, chỉ ra điểm yếu, điểm mạnh để những người cộng sản không vấp phải sai lầm.
Ví dụ, thông qua phân tích “chu chuyển tư bản”, “giá trị thặng dư”, Marx kết luận: “Chủ nghĩa tư bản và khủng hoảng kinh tế như hình với bóng”. Tiên đoán này đã đúng và đang đúng. Vậy nên, các nước XHCN sửa sai bằng cách “định hướng” nền kinh tế - có sự điều tiết của Nhà nước bên cạnh quy luận vận động khách quan.
Triết học Marx trang bị thế giới quan duy vật, phương pháp luận biện chứng có thể tham chiếu áp dụng trong mọi lĩnh vực. Đây là giá trị lớn nhất trong hệ thống “bộ ba” cấu thành lý luận cộng sản - không chỉ giành riêng cho các nước XHCN.
Như vậy, sự có mặt của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa nói riêng và phong trào cách mạng vô sản nói chung một lần nữa khẳng định “tính tất yếu” của một khuynh hướng chính trị mang nhiều ưu việt, hoàn toàn có thể tồn tại song song với bất cứ lý thuyết chính trị nào.
Thứ hai, Chủ nghĩa Marx-Lenin không hề “chết” như một số phân tích, bình luận phiến diện. Loài người có nhiều cách thức tổ chức nhà nước, đảng phái, đại diện cho mỗi giai đoạn lịch sử. Tất nhiên, không có chế độ chính trị nào là hoàn hảo.
Chẳng hạn, giá trị dân chủ phương Tây phù hợp với văn hóa du mục, nơi đề cao cá nhân; còn giá trị dân chủ phương Đông xuất phát từ cội rễ văn minh lúa nước, dựa vào nhau để “trị thủy”, cố kết ngàn đời chống xâm lăng, cải tạo tự nhiên nên đề cao vai trò tập thể.
Nhà nước hình thành trên một đảng phái duy nhất luôn ổn định, bền vững trong quản lý xã hội, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng. Còn hệ thống đa đảng luôn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn chính trị, chia năm xẻ bảy dẫn đến khủng hoảng.
Bất kỳ sự khu biệt, đối lập nào trong thế giới hiện đại đều bước vào con đường tự sát. TBCN và XHCN là hai khuynh hướng không hề đối lập, chúng có khả năng bổ sung cho nhau, có thể tồn tại song hành, mục đích cuối cùng đều đi đến dân chủ trên nền tảng phù hợp với truyền thống văn hóa, điều kiện tồn tại, không gian sinh tồn.
Tính đến năm 1991, Liên Xô tồn tại được 74 năm và đã đạt được thành tựu sánh ngang với Hoa Kỳ có lịch sử 215 năm! Điều đó khẳng định tính khoa học của đường lối chính trị, tư chất người cộng sản.
Ngày nay, khối XHCN đang tham gia sâu rộng trong đời sống kinh tế, chính trị thế giới, một số quốc gia đạt đến trình độ có thể “chia đôi thế giới” đảm đương một cực không thể thiếu.
Thế giới rất quan tâm đến “mô hình Bắc Âu”, nơi phát triển đến đỉnh cao và rẽ ngoặt bất ngờ, nhiều đặc điểm nhà nước, xã hội trùng khít với lý tưởng XHCN. Một số đảng phái chính trị trong lòng châu Âu ngày nay mang màu sắc “xã hội” nhiều hơn “tư bản”.
Có thể bạn quan tâm
Quốc khánh 2/9 nghĩ về cuộc cách mạng của “Ý Đảng và lòng dân”
05:30, 02/09/2022
Quốc khánh 2/9 - ngày của niềm tự hào, vinh quang
05:00, 02/09/2022
Ngày Quốc khánh 2/9 nghĩ về lòng tự tôn dân tộc của Việt Nam
04:00, 02/09/2022
Đà Nẵng: Phố phường rực đỏ mừng kỷ niệm Quốc khánh 2/9
02:04, 02/09/2022