Đề xuất tính thuế thu nhập cá nhân trực tiếp trên doanh thu của hộ kinh doanh khiến người băn khoăn vì nguy cơ đánh thuế “từ đồng đầu tiên”, không phản ánh đúng thu nhập thực…
Khi Quốc hội thảo luận về dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi), một trong những nội dung gây nhiều tranh luận nhất chính là phương pháp tính thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.

Theo đó, dự thảo tiếp tục đề xuất tính thuế trực tiếp theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu, với ngưỡng chịu thuế từ 200 triệu đồng/năm, mà không trừ chi phí vốn và chi phí đầu vào. Điều này dấy lên lo ngại rằng nhiều hộ nhỏ lẻ sẽ rơi vào tình trạng “thuế cao hơn thực lãi”, thậm chí phải nộp thuế dù hoạt động kinh doanh không có lãi.
Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng cách tính thuế dựa hoàn toàn trên doanh thu là “rất bất công” với những hộ kinh doanh dựa vào vốn nhập hàng lớn. Ông dẫn thực tế nhiều hộ bán bún, bán tạp hóa, quán nhỏ… có doanh thu 15 - 20 triệu đồng/tháng nhưng lợi nhuận chỉ vài triệu đồng sau khi trừ chi phí nguyên liệu, mặt bằng, điện nước, nhân công.
“Nếu xem toàn bộ doanh thu là thu nhập chịu thuế mà không tính chi phí thì rõ ràng không thỏa đáng. Mức 20 triệu đồng/tháng hiện nay là quá thấp, hộ kinh doanh nhỏ không thể chịu nổi”, ông Hòa nhấn mạnh. Ông đề nghị nâng ngưỡng doanh thu chịu thuế lên mức 40 - 50 triệu đồng/tháng hoặc cao hơn để phản ánh đúng thực tế.
Đại biểu cũng cảnh báo, trong bối cảnh giá nguyên liệu tăng, chi phí vận hành ngày càng lớn, áp thuế từ mức doanh thu thấp có thể khiến nhiều hộ kinh doanh nản lòng, không còn động lực mở rộng sản xuất, thậm chí buộc phải thu hẹp hoạt động.
Ở một góc nhìn cụ thể hơn, đại biểu Hoàng Văn Cường (Hà Nội) đưa ví dụ: người bán sữa mua mỗi hộp với giá khoảng 900.000 đồng, bán ra 1 triệu đồng. Lãi thực chỉ 100.000 đồng. Nếu bán 200 hộp, doanh thu đạt 200 triệu đồng nhưng lợi nhuận thực tế chỉ 20 triệu đồng.
“Nếu lấy doanh thu 200 triệu để làm căn cứ tính thuế, bỏ qua phần chi phí vốn chiếm tới 90% giá trị giao dịch, thì rõ ràng không hợp lý”, ông nói.
Ông Cường phân tích thêm: mức giảm trừ gia cảnh hiện hành của người làm công ăn lương tương đương 260 triệu đồng/năm cho một cá nhân và một người phụ thuộc. Với biên lợi nhuận 10% như ví dụ nêu trên, một hộ kinh doanh phải đạt doanh thu 2,6 tỉ đồng/năm mới có phần thu nhập giữ lại bằng ngưỡng bắt đầu chịu thuế của người lao động.
“Nếu xét theo nguyên tắc công bằng, ngưỡng doanh thu 200 triệu đồng/năm là không phù hợp”, đại biểu Hoàng Văn Cường nhấn mạnh.
Ông đề nghị phân loại ngưỡng doanh thu theo ngành nghề. Với các hộ kinh doanh hàng hóa có biên lợi nhuận thấp, ngưỡng khởi điểm nên từ 1,5 tỉ đồng/năm; với ngành dịch vụ không bỏ nhiều chi phí vật chất, có thể ở mức 500 triệu đồng/năm; còn sản xuất và kinh doanh thông thường, mức tối thiểu nên từ 1 tỉ đồng/năm.

Trong khi đó, đại biểu Trần Văn Lâm (Bắc Ninh) cũng nhìn nhận vấn đề dưới khía cạnh công bằng thuế. Theo ông, người làm công ăn lương chỉ nộp thuế sau khi trừ giảm trừ gia cảnh, chỉ bắt đầu nộp thuế khi thu nhập vượt trên 11 triệu đồng/tháng (không có người phụ thuộc). Trong khi đó, hộ kinh doanh nhỏ lẻ lại phải nộp thuế theo tỷ lệ phần trăm ngay trên doanh thu, gần như “từ đồng đầu tiên”, không quan tâm kinh doanh lãi hay lỗ.
“Đặt hai nhóm đối tượng cạnh nhau có thể thấy một khoảng cách rất lớn về công bằng thuế”, ông Lâm nhấn mạnh.
Ông cũng chỉ ra một sai lệch trong báo cáo giải trình: việc so sánh doanh thu 200 triệu đồng/năm với mức giảm trừ gia cảnh là không hợp lý, vì một bên là doanh thu, một bên là thu nhập sau chi phí. So sánh hai đại lượng khác bản chất sẽ dẫn đến kết luận thiếu chính xác.
Trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp xung quanh câu chuyện này, Luật sư Lê Thị Nhung, Giám đốc Công ty luật L&A Legal Experts, đánh giá các băn khoăn của đại biểu là “hoàn toàn có cơ sở”. Theo bà, bản chất của thuế thu nhập cá nhân là đánh vào thu nhập thực, tức phần còn lại sau khi trừ đi chi phí hợp lý để tạo ra thu nhập. Nếu áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp trên doanh thu chỉ vì thuận tiện quản lý, thì nguy cơ lớn nhất là “thu đúng luật nhưng sai bản chất của thuế thu nhập”.
Luật sư Nhung cho rằng việc chuyển từ thuế khoán sang thuế trực tiếp trên doanh thu có thể là xu hướng minh bạch hóa trong tương lai, nhưng quy định phải đảm bảo tính khả thi. Bà đồng tình với đề xuất nâng ngưỡng doanh thu chịu thuế và phân loại theo đặc thù ngành nghề như các đại biểu đề cập, coi đó là hướng tiếp cận hợp lý để giảm thiểu rủi ro đánh thuế quá tay lên nhóm hộ kinh doanh có biên lợi nhuận thấp.
Bên cạnh đó, bà Nhung cũng nhấn mạnh thêm yêu cầu ổn định chính sách: các tỷ lệ thuế quan trọng và nguyên tắc tính thuế nên được quy định trực tiếp trong luật, tránh để hoàn toàn trong thông tư dưới luật. Khi khung thuế được “đóng” ở cấp cao nhất, hộ kinh doanh mới có cơ sở tính toán dài hạn và yên tâm mở rộng hoạt động.
“Nếu chính sách thay đổi quá linh hoạt ở cấp dưới luật, rủi ro luôn dồn về phía người kinh doanh nhỏ, vốn là nhóm dễ tổn thương nhất”, Luật sư Lê Thị Nhung nhấn mạnh.