Vẫn còn đó những tranh cãi xoay quanh việc áp dụng các biện pháp ứng phó đại dịch COVID-19 của các quốc gia. Biện pháp nào là tối ưu khi đại dịch vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại?
Đã hơn một năm kể từ khi chủng virus coronavirus mới xuất hiện ở Vũ Hán, Trung Quốc. Kể từ đó, nó đã đến mọi lục địa trên hành tinh, lây nhiễm cho hơn 150 triệu người và gây ra hơn 3 triệu người chết. Nền kinh tế toàn cầu đã thu hẹp hơn 4% - mức thu hẹp lớn nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Các chính phủ trên thế giới đã cố gắng, với các mức độ thành công khác nhau, để đối phó với thiệt hại khủng khiếp của đại dịch. Đóng cửa biên giới, cấm tụ tập, cưỡng chế phong tỏa ở các mức độ khác nhau, đồng thời cung cấp hỗ trợ tài chính và đầu tư vào các chương trình thử nghiệm và truy tìm. Nhưng hầu hết các quốc gia vẫn đang loay hoay trong các biện pháp để vừa khống chế sự bùng phát của nó và vừa phát triển kinh tế.
Ở hầu hết các quốc gia, người dân đã chỉ trích chính phủ của họ. Ngay cả những nhà lãnh đạo giỏi nhất cũng đã phải vật lộn để cân bằng các yêu cầu về sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế. Họ vẫn đang đứng trước một loạt các vấn đề cụ thể của quốc gia: các quy tắc của chính phủ, sự phân cực chính trị, sự ổn định kinh tế, năng lực của hệ thống y tế, dư luận, lòng tin của thể chế, và lịch sử của nhà nước.
Rõ ràng ở đây người ta thấy có sự khác biệt trong sự giám sát của chính phủ ở Rwanda khác với ở Canada; tự do cá nhân chi phối hình ảnh bản thân của người Mỹ nhưng không chi phối hình ảnh của người Hàn Quốc; Hệ thống chăm sóc sức khỏe của Đức có thể chịu được một trận đại hồng thủy COVID-19 mà Ấn Độ không thể,…
Adam Oliver, giáo sư tại Trường Kinh tế London, là một trong nhiều nhà nghiên cứu đã theo dõi cách mà các quốc gia khác nhau phản ứng với đại dịch. Ông cho rằng, đã có những tác động không liên quan đến sức khỏe trong cách phản ứng với đại dịch của các nước. Ông đã phân loại các phản ứng của đại dịch thành ba biện pháp chính mà các nước thường dùng: cách tiếp cận nhanh, cách tiếp cận mềm và cách tiếp cận cứng.
Các quốc gia áp dụng “cách tiếp cận nhanh” đã sử dụng hành động một cách nhanh chóng để ngăn chặn sự lây lan của virus và nói chung có thể tránh được tình trạng phong tỏa kéo dài. Ví dụ, Đài Loan, Việt Nam đã hành động sớm và mạnh mẽ thông qua các đường biên giới khép kín, đeo khẩu trang toàn dân, theo dõi liên lạc mạnh mẽ và các biện pháp kiểm dịch được thực thi bằng theo dõi điện thoại di động. Rõ ràng, với những nước này, dịch bệnh đã từng bước được khống chế.
Trong cách tiếp cận nhanh này, nhiều quốc gia châu Á đã sớm nhận ra rằng đại dịch này sẽ nguy hiểm hơn nhiều so với bệnh cúm. Và một số nước đã có kinh nghiệm với đại dịch Sars. Họ đã có cơ sở hạ tầng y tế công cộng, các chương trình chăm sóc và theo dõi, các quy trình cách ly, các chiến lược truyền thông, khá nhiều thứ đã sẵn sàng.
Chiến lược thứ hai, cách tiếp cận mềm - dựa vào các khuyến nghị thay vì các yêu cầu. Nhiều quốc gia đã đi theo con đường này sau khi không hành động nhanh chóng, hoặc vì họ không muốn hoặc không thể thông qua việc phong tỏa. Thay vào đó, họ khuyến nghị, nhưng không thực thi, che giấu việc sử dụng, đóng cửa và cách ly. Thụy Điển là ví dụ được trích dẫn nhiều nhất và bị chỉ trích rộng rãi nhất về một quốc gia như vậy, khi số người chết vì COVID -19 của họ cao hơn nhiều so với các nước láng giềng Scandinavia.
Ngoài ra, người ta có thể thấy cách tiếp cận mềm ở các quốc gia khác như Nhật Bản, nơi hiến pháp áp đặt một số giới hạn vào khả năng của chính phủ trong việc ủy thác hành vi, và Brazil, với thái độ “cực kỳ chủ quan” của Tổng thống đối với virus - “ Chúng ta cần phải dừng việc trở thành một quốc gia của những kẻ ngu ngốc”, Tổng thống Brazil từng phát biểu.
Nước Anh dường như cũng tán thành cách tiếp cận mềm từ rất sớm. Tuy nhiên, cuối cùng, họ đi theo chiến lược thứ ba, cách tiếp cận cứng rắn - được đặc trưng bởi hành động tích cực hơn của chính phủ.
Cách tiếp cận này đã được hầu hết các quốc gia áp dụng vào thời điểm này hay thời điểm khác, quốc gia điển hình ở đây là Mỹ. Khi các ca bệnh gia tăng và các bệnh viện lấp đầy, chính phủ mới yêu cầu bịt khẩu trang, áp đặt lệnh giới nghiêm, cấm tụ tập đông người và ra lệnh phong tỏa cho đến khi con số nhiễm bệnh được cải thiện. Ở Mỹ, các bang riêng lẻ đã thử nghiệm cả hai phương pháp tiếp cận mềm và cứng xen kẽ.
Trong khi đó, các quốc gia châu Âu, hầu hết trong số họ bắt đầu bằng cách tiếp cận cứng, nhưng sau đó lại áp dụng phương án mềm, và sau đó buộc phải chuyển sang cách tiếp cận cứng trở lại khi các ca lây nhiễm gia tăng trở lại.
Có thể thấy, ở một số quốc gia phải thực hiện cách tiếp cận cứng vì hệ thống chăm sóc sức khỏe của họ được mở rộng ở mức cơ bản và họ không thể chịu đựng được khi số ca mắc bệnh tăng cao.
Cuối cùng, các quốc gia trên thế giới, dù có áp dụng biện pháp nào đi chăng nữa, mục đích cũng là để có thể vừa khống chế được dịch bệnh, vừa làm giảm thiểu những thiệt hại về kinh tế. Nhưng cho đến giờ phút này, trên khắp thế giới, hàng tỷ người vẫn đang bị ảnh hưởng bởi virus, và chưa có dấu hiệu cho thấy đại dịch được khống chế.
Có thể bạn quan tâm
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Cơ bản đang kiểm soát được 4 nguồn lây dịch COVID-19
17:36, 10/05/2021
Nguy cơ bùng nổ "điểm nóng" COVID-19 trên toàn cầu
14:53, 10/05/2021
Lần đầu tiên Bộ Y tế có bản tin trưa báo động về số ca mắc COVID-19 tăng đột biến
13:29, 10/05/2021
TP HCM: Nguy cơ lây COVID-19 từ các tàu thủy quốc tế bất hợp pháp, nâng mức cảnh báo lên cao nhất
13:10, 10/05/2021
Vì sao khó dỡ bỏ quyền sở hữu trí tuệ vắc xin COVID-19?
05:49, 10/05/2021
"Không thể lơ là, chậm trễ thêm" trong phòng chống dịch COVID-19
02:39, 10/05/2021