Tác động tích cực của bệnh dịch là đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Do đó, cần tận dụng và thúc đẩy quá trình này.
PGS.TS Bùi Quang Tuấn, Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam nhấn mạnh tại buổi toạ đàm tham vấn chuyên gia về kinh tế- xã hội, do Văn phòng Quốc hội phối hợp với Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức tổ chức ngày 27/9.
Toạ đàm tham vấn chuyên gia về kinh tế- xã hội, do Văn phòng Quốc hội phối hợp với Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức tổ chức ngày 27/9.
Theo PGS.TS Bùi Quang Tuấn, Việt Nam cần nghiên cứu xây dựng, thực hiện nhóm giải pháp cụ thể khuyến khích và hỗ trợ chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, trong đó có thương mại điện tử. Rà soát khung pháp lý, chính sách hiện hành có liên quan đến chuyển đổi số và các định hướng trong Chiến lược chuyển đổi số và Chính phủ điện tử, xác định những bất hợp lý trên các phương diện khác nhau để có thể hoàn thiện khung pháp lý và chính sách liên quan đến chuyển đổi số.
Tăng cường sử dụng công nghệ số qua việc đầu tư, nâng cấp kết cấu hạ tầng số và tăng cường cung cấp các dịch vụ qua công nghệ số đến tới người dân và doanh nghiệp, thúc đẩy đầu tư số hóa quản trị doanh nghiệp, nhất là lao động theo hướng minh bạch, kết nối với chương trình Chính phủ điện tử, số hóa quản lý dân cư; chủ động xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết và giao dịch, hợp tác lao động, việc làm trong thị trường khu vực và thị trường quốc tế.
Xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp lý liên quan đến quá trình chuyển đổi kinh tế truyền thống sang kinh tế số, nhất là trong công nhận, kiểm chứng các vấn đề khác nhau. Ví dụ, tính chính danh cho việc nhận hỗ trợ đối với lao động chính thức trong lĩnh vực kinh tế truyền thống và trong kinh tế số; hoặc vấn đề hóa đơn điện tử. Những điều này giúp việc hỗ trợ người lao động, doanh nghiệp phi chính thức (theo nghĩa truyền thống) dễ dàng và kịp thời hơn.
Vẫn theo PGS.TS Bùi Quang Tuấn, để tạo môi trường thuận lợi cho phát triển thương mại số, cần tập trung vào lĩnh vực công nghệ thông tin và thuê ngoài quy trình kinh doanh. Tăng cường khả năng kết nối thông qua việc đầu tư của Nhà nước để mở rộng cơ sở hạ tầng mạng, từ đó khuyến khích đầu tư tư nhân, thúc đẩy các mô hình kinh doanh sáng tạo.
Xây dựng các chương trình hỗ trợ chuyển đổi số ở các lĩnh vực truyền thống cho các DNNVV giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế số ở Việt Nam. Chú trọng nâng cao trình độ và kỹ năng số cho doanh nghiệp và người dân, hỗ trợ người lao động, nhất là người yếu thế từng bước thích ứng với công nghệ số; vai trò của các thỏa thuận quốc tế trong hợp tác về công nghệ số và kinh tế số. Đẩy mạnh hợp tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường kết nối cộng đồng khoa học công nghệ giữa các quốc gia, khu vực.
“Việt Nam cần tham gia tích cực hơn sáng kiến quản lý dữ liệu trong Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN 2025 nhằm nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với các yêu cầu về quy định dữ liệu trong ASEAN, đồng thời xác định các lĩnh vực ưu tiên để thúc đẩy hiệu quả và điều phối”, PGS.TS Bùi Quang Tuấn nói.
Còn ông Andrew Jeffries, Giám đốc Quốc gia của ADB tại Việt Nam đánh giá, kết nối kỹ thuật số là một trong những rào cản đã có những tiến bộ đáng kể. Khi hàng triệu người dùng mới đã có quyền truy cập vào Internet, chúng ta không được bỏ qua rằng đối với nhiều người, khả năng chi trả và khả năng hiểu biết kỹ thuật số vẫn là một thách thức.
Họ có thể truy cập internet nhưng có thể chọn không truy cập. Phần lớn người tiêu dùng kỹ thuật số Việt Nam (74%) là người thành thị. Mặc dù sự mất cân bằng giữa dân số thành thị và nông thôn là một thách thức phức tạp hơn ngoài khả năng truy cập internet, nhưng nó phản ánh một thách thức nổi tiếng, chỉ riêng việc phủ sóng mạng di động không phản ánh số lượng người dùng.
Trình độ kỹ thuật số, chi phí thiết bị và kế hoạch dữ liệu, tính sẵn có và phù hợp của nội dung theo ngôn ngữ địa phương, khả năng tiếp cận điện và giao thông, giới tính, độ tuổi và tình trạng việc làm đều đóng vai trò quyết định sự tham gia vào nền kinh tế số.
Trong thiết kế chính sách, chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng những người chưa được kết nối và những người chọn không tham gia. Việc ba phần tư người dùng Internet của Việt Nam sống ở các khu vực đô thị, một tỷ lệ cao hơn so với các quốc gia Đông Nam Á khác, lại cho thấy cơ hội to lớn ở các vùng nông thôn, nơi hầu hết người tiêu dùng chưa được hưởng lợi từ nền kinh tế số.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số sẽ phải tăng lên đáng kể để hỗ trợ sự mở rộng của lĩnh vực kỹ thuật số. Áp dụng kịch bản chuyển đổi kỹ thuật số, ADB ước tính rằng sẽ cần các khoản đầu tư vào lĩnh vực kỹ thuật số khoảng 182 tỷ USD hàng năm hoặc 910 tỷ USD ở Châu Á và Thái Bình Dương trong khoảng thời gian 5 năm để cung cấp các dịch vụ di động và băng thông rộng giá cả phải chăng.
Đồng thời, mở rộng phạm vi tiếp cận và phủ sóng internet. Hầu hết các khoản đầu tư này sẽ đến từ khu vực tư nhân vốn đã rất tích cực trong lĩnh vực viễn thông cho thấy vai trò quan trọng của các nhà hoạch định chính sách và cơ quan quản lý trong việc tạo điều kiện và khuyến khích các khoản đầu tư đó.
Với Thương mại điện tử và thương mại xuyên biên giới trở thành một yếu tố tăng trưởng quan trọng thì cần phải cải thiện các quy trình thương mại và cơ sở hạ tầng hậu cần bằng cách giải quyết các rào cản hiện có.
Hiện tại, khoảng cách giữa các quốc gia có kết nối tốt nhất và kém nhất vẫn còn rộng. Những thách thức quan trọng nổi bật và có thể được hưởng lợi từ quá trình số hóa và tự động hóa lớn hơn là thủ tục thông quan và các quy trình biên giới.
Một miền chính sách được liên kết khác là quyền truy cập vào các dịch vụ tài chính kỹ thuật số an toàn và bảo mật cũng như các hệ thống và tùy chọn thanh toán. Những người tham gia thị trường từ phía cung và cầu cần có các hệ thống, công nghệ đáng tin cậy và quy định mạnh mẽ có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch tài chính và bảo vệ dữ liệu cá nhân, ngăn chặn các hoạt động bất hợp pháp và tăng cường an ninh mạng.
Là động lực thúc đẩy sự phát triển kỹ thuật số, các công ty khởi nghiệp công nghệ cần được các cơ quan quản lý và hoạch định chính sách quan tâm đúng mức. Các công ty khởi nghiệp xác định các cơ hội kinh doanh mới, phát triển các giải pháp mới hoặc các giải pháp thích ứng cho những thách thức hoặc phân khúc thị trường mới.
Họ cũng giúp các doanh nghiệp đã thành lập và các ngành kế thừa chuyển đổi có thể là đối tác hoặc nhà cung cấp dịch vụ của họ, tạo ra việc làm mới và cung cấp cơ hội việc làm trong các ngóc ngách mới của thị trường việc làm.
Một cách tiếp cận đầy hứa hẹn, được thực hành rộng rãi là thúc đẩy một môi trường thuận lợi có thể giúp ươm tạo, tăng tốc và mở rộng quy mô các dự án kinh doanh mới.
Hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ tạo ra các công ty khởi nghiệp khả thi thường hiển thị một tập hợp các yếu tố cốt lõi (tức là doanh nhân, tài năng công nghệ, ý tưởng và giải pháp) và một loạt các yếu tố hỗ trợ.
Điều này bao gồm các nhà tài trợ, ví dụ các nhà đầu tư thiên thần kinh doanh, mạng lưới nhà đầu tư và các công ty đầu tư mạo hiểm), đồng nghiệp / cố vấn, các cơ sở ươm tạo và tăng tốc, mạng lưới, liên kết nghiên cứu và phát triển (R&D) cũng như các chương trình khuyến khích và hỗ trợ công cộng.
Các hệ sinh thái thành công có xu hướng thể hiện sự hiện diện của các tác nhân này, với Chính phủ là người hỗ trợ, trao quyền cho các tác nhân này và hỗ trợ động lực của họ hướng tới đổi mới và tăng trưởng.
“Điều tôi nhấn mạnh ở đây là một số ưu tiên chính sách và đầu tư mà quý vị với tư cách là người ra quyết định có thể tạo ra sự khác biệt thực sự cho quỹ đạo số hóa ở Việt Nam”, ông Andrew Jeffries bày tỏ.
Có thể bạn quan tâm