Việc giảm phát thải khí nhà kính đang nhanh chóng chuyển từ một lựa chọn tự nguyện thành một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu sang các thị trường lớn như Mỹ và EU.
Cùng ông Trần Quốc Dũng - Giám đốc Trung tâm Chứng nhận Phù hợp QUACERT, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc Gia trao đổi xoay quanh câu chuyện này.
- Hiệu ứng nhà kính đe dọa sự tồn tại bình thường của loài người và thế giới sự sống. Ông có thể đưa ra những con số cho thấy mức độ nghiêm trọng của hiệu ứng nhà kính tại Việt Nam nói riêng và toàn cầu nói chung?
Hiệu ứng nhà kính không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà còn được minh chứng rõ ràng qua những con số thống kê đáng báo động.
Tại Việt Nam, nhiệt độ trung bình đã tăng khoảng 0,5 độ C trong 50 năm qua và dự kiến sẽ tiếp tục tăng thêm 1,5 - 2,5 độ C vào cuối thế kỷ 21. Các vùng ven biển Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ bị xâm thực nghiêm trọng do mực nước biển dâng. Theo dự báo, đến cuối thế kỷ này, mực nước biển có thể dâng cao từ 30cm đến 1 mét. Tần suất và cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lũ, hạn hán, sóng nhiệt ngày càng gia tăng, gây ra thiệt hại lớn về người và tài sản. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng của nhiều loại cây trồng, gây ra mất an ninh lương thực.
Trên toàn cầu, nồng độ khí CO2 trong khí quyển đã tăng lên mức cao kỷ lục, vượt xa ngưỡng an toàn mà các nhà khoa học cảnh báo. Theo Hiệp định Paris, các nước phấn đấu giữ mức tăng nhiệt độ trái đất ở mức 1,5-2,0oC so với thời kỳ tiền công nghiệp. Tuy nhiên, Ủy ban Môi trường Liên hiệp quốc đã cảnh báo là nhiệt độ trái đất sẽ vượt 1,9oC trong thế kỷ 21. Năm 2023 Châu Âu đã phải chịu đợt nắng nóng kỷ lục với thời điểm lên tới 46oC kéo dài 10 ngày, chứng kiến đám cháy rừng lớn nhất từng được ghi nhận, cũng như một trong những trận lũ lụt gây thiệt hại nặng nề nhất từ trước đến nay. Các sông băng trên thế giới đang tan chảy với tốc độ nhanh chóng, làm mực nước biển dâng cao và gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng. Các sự kiện thời tiết cực đoan như sóng nhiệt, cháy rừng, lũ lụt xảy ra ngày càng nhiều và gây ra thiệt hại kinh tế lên tới hàng tỷ đô la mỗi năm. Hàng nghìn loài động thực vật đang có nguy cơ tuyệt chủng do biến đổi khí hậu.
Những con số trên cho thấy tình hình biến đổi khí hậu đang diễn ra một cách nghiêm trọng và nhanh chóng. Nếu không có những hành động quyết liệt để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, chúng ta sẽ phải đối mặt với những hậu quả khôn lường trong tương lai.
- Sau những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam về giảm phát thải khí nhà kính, Chính phủ, các Bộ, ngành đã có nhiều hoạt động tích cực để “nội luật hóa” các quy định, trong đó có nhiều quy định liên quan trực diện tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về các hoạt động này?
Việt Nam đã có những bước đi tích cực trong việc nội luật hóa các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính. Điều này đồng nghĩa với việc các quy định pháp luật trong nước ngày càng được hoàn thiện để phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tạo ra một khung pháp lý rõ ràng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Cụ thể, Chính phủ đã ban hành nhiều luật, Nghị định mới liên quan đến bảo vệ môi trường, năng lượng, và biến đổi khí hậu. Đồng thời sửa đổi, bổ sung các luật hiện hành, các luật hiện hành như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đầu tư, Luật Năng lượng đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với các cam kết quốc tế và thực tiễn mới.
Việt Nam đã xây dựng và ban hành nhiều tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về khí thải, chất lượng môi trường, và hiệu suất năng lượng. Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng quốc gia cũng đã xây dựng và cập nhật các tiêu chuẩn về kiểm kê khí nhà kính theo các chuẩn mực quốc tế.
Chính phủ đang xây dựng và triển khai các cơ chế thị trường như giao dịch khí thải, cơ chế phát triển sạch để khuyến khích các doanh nghiệp giảm phát thải và đầu tư vào các dự án thân thiện với môi trường. Các cơ quan chức năng đã tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để đảm bảo các doanh nghiệp tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường.
Chính phủ cũng đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình sản xuất kinh doanh bền vững, giảm thiểu phát thải khí nhà kính.
- Các yêu cầu, diễn biến mới từ các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam như Mỹ, EU…cũng cho thấy, giảm phát thải khí nhà kính đã được coi là một tiêu chí “bắt buộc” thay vì là “tự nguyện” để doanh nghiệp có thể cạnh tranh và tồn tại trong các chuỗi cung ứng. Ông có thể dẫn chứng một số câu chuyện nổi bật về diễn biến này?
Việc giảm phát thải khí nhà kính đang nhanh chóng chuyển từ một lựa chọn tự nguyện thành một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu sang các thị trường lớn như Mỹ và EU.
Các thị trường này đang ngày càng siết chặt các quy định về môi trường, yêu cầu các sản phẩm nhập khẩu phải đáp ứng các tiêu chuẩn về phát thải carbon theo mức độ tương đương với Châu Âu. Nếu vượt quá, doanh nghiệp nhập khẩu phải chịu “thuế” phát thải. Điều này nhằm đảm bảo sự công bằng đối với các nhà sản xuất của Châu Âu. Phương thức này cũng đang được triển khai ở Mỹ và sắp tới là Anh, Australia...
Điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn tiếp cận và duy trì thị phần tại các thị trường này sẽ phải thay đổi mô hình sản xuất, kinh doanh theo hướng bền vững hơn, phát thải thấp hơn.
Chúng ta có thể điểm qua một số diễn biến nổi bật gần đây:
EU Carbon Border Adjustment Mechanism (CBAM): Đây là một cơ chế điều chỉnh carbon biên giới mà EU đang xây dựng. Theo đó, các nhà nhập khẩu hàng hóa vào EU sẽ phải mua chứng chỉ carbon để bù đắp cho lượng phát thải carbon trong quá trình sản xuất hàng hóa đó. Điều này sẽ tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam, buộc họ phải tìm cách giảm thiểu phát thải để giảm thiểu chi phí.
Các tiêu chuẩn xanh của Mỹ: Đất nước này cũng đang ngày càng siết chặt các tiêu chuẩn xanh đối với hàng hóa nhập khẩu. Nhiều bang của Mỹ đã ban hành các luật yêu cầu các cơ quan chính phủ chỉ được mua các sản phẩm có nguồn gốc bền vững.
Áp lực từ các nhà bán lẻ lớn: Các nhà bán lẻ lớn trên thế giới như Walmart, IKEA đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao về tính bền vững cho các nhà cung cấp của họ. Các doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn trở thành nhà cung cấp cho các nhà bán lẻ này sẽ phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về giảm phát thải.
Xu hướng tiêu dùng bền vững: Người tiêu dùng trên thế giới ngày càng quan tâm đến các sản phẩm có nguồn gốc bền vững, thân thiện với môi trường. Điều này tạo ra áp lực lên các doanh nghiệp phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Các doanh nghiệp trong các ngành như dệt may, thủy sản, điện tử…đã có những hành động rất quyết liệt đối với hoạt động này. Nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã phải đầu tư vào các công nghệ mới để giảm thiểu lượng nước thải và hóa chất trong quá trình sản xuất, đồng thời chuyển sang sử dụng các nguồn nguyên liệu tái chế. Các doanh nghiệp thủy sản đang được khuyến khích áp dụng các phương pháp nuôi trồng thủy sản bền vững, giảm thiểu tác động đến môi trường. Các doanh nghiệp điện tử đang phải đối mặt với yêu cầu về việc thu hồi và tái chế các sản phẩm cũ, giảm thiểu chất thải điện tử.
Việc giảm phát thải khí nhà kính không chỉ là yêu cầu của các thị trường xuất khẩu mà còn là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp cận các thị trường mới và xây dựng thương hiệu bền vững.
- Theo quy định, lộ trình thực hiện kiểm kê khí nhà kính trong nước sẽ được thực hiện như thế nào, thưa ông?
Theo Luật Bảo vệ môi trường ban hành năm 2020, có hiệu lực từ 01/01/2022, quy định cơ sở phát thải khí nhà kính thuộc danh mục phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính có trách nhiệm sau đây:
Tổ chức thực hiện kiểm kê khí nhà kính, xây dựng và duy trì hệ thống cơ sở dữ liệu phát thải khí nhà kính và gửi kết quả kiểm kê khí nhà kính định kỳ 02 năm một lần đến Bộ Tài nguyên và Môi trường trước ngày 01/12 của kỳ báo cáo để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ;
Xây dựng, thực hiện kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính hằng năm; thực hiện lồng ghép hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính với chương trình quản lý chất lượng, chương trình sản xuất sạch hơn, chương trình bảo vệ môi trường của cơ sở;
Hằng năm, lập báo cáo mức giảm phát thải khí nhà kính để thực hiện kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của cơ sở theo hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan trước ngày 31/12 của kỳ báo cáo.
Còn theo Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn và Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, các đơn vị có mức phát thải khi nhà kính từ 3.000 tấn CO2 tương đương trở lên, thuộc 6 lĩnh vực sau phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính: năng lượng; giao thông vận tải; xây dựng; các quá trình công nghiệp; nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất; và chất thải.
Cụ thể, 1.912 cơ sở phát thải theo danh sách chỉ định phải cung cấp số liệu hoạt động, thông tin liên quan phục vụ kiểm kê khí nhà kính của cơ sở của năm trước kỳ báo cáo theo hướng dẫn của bộ quản lý lĩnh vực trước ngày 31/3 kể từ năm 2023. Tổ chức thực hiện kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở, xây dựng báo cáo kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở định kỳ hai năm một lần cho năm 2024 trở đi và gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước ngày 31/3 kể từ năm 2025 để thẩm định. Hoàn thiện báo cáo kết quả kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở, gửi bộ Tài nguyên và Môi trường trước ngày 01/12 của kỳ báo cáo bắt đầu từ năm 2025.
- Việc kiểm kê khí nhà kính ở Việt Nam hiện nay và thế giới có gì khác nhau, thưa ông?
Việt Nam đã tham gia các thỏa thuận quốc tế chống biến đổi khí hậu nên về cơ bản các hoạt động liên quan đến kiểm kê khí nhà kính của Việt Nam cũng phải tuân thủ theo các tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, do điều kiện của Việt Nam mà việc áp dụng hiện đang có giới hạn. Cụ thể, đối với kiểm kê khí nhà kính thì việc trước hết là phải xác định được đầy đủ, chính xác các nguồn phát thải, trực tiếp và gián tiếp. Theo quốc tế, ở cấp độ kiểm kê khí nhà kính của doanh nghiệp, người ta phân loại 6 nguồn thải gồm 01 nguồn trực tiếp và 05 nguồn gián tiếp. Tuy nhiên, theo quy định bắt buộc hiện nay ở Việt Nam thì mới chỉ yêu cầu kiểm kê 02 nguồn gồm 01 nguồn trực tiếp và 01 nguồn gián tiếp (do sử dụng năng lượng từ việc đốt các nhiên liệu hóa thạch và các nhiên liệu khác có liên quan). Trong khi đó các nguồn khác phát sinh từ hoạt động vận chuyển, sử dụng sản phẩm... chưa được quy định bắt buộc. Như vậy kết quả kiểm kê chưa toàn diện, chưa phản ảnh đầy đủ lượng phát thải của doanh nghiệp, dẫn tới độ đảm bảo không cao và sau này doanh nghiệp khó được chấp nhận kết quả nếu muốn giao dịch quốc tế. Có trường hợp khi chúng tôi thực hiện thẩm tra báo cáo kiểm kê khí nhà kính của doanh nghiệp thì thấy tổng lượng phát thải thực tế cao gấp 3 lần so với tổng phát thải nếu chỉ tính 02 nguồn là trực tiếp và sử dụng năng lượng.
- Vậy doanh nghiệp nên làm gì?
Doanh nghiệp nên áp dụng tiêu chuẩn TCVN ISO 14064-1 vào hoạt động kiểm kê của mình. Đây là tiêu chuẩn Việt Nam hoàn toàn tương đương với tiêu chuẩn quốc tế. Khi đó kết quả kiểm kê sẽ bao gồm tất cả các nguồn phát thải có thể tính toán, đo lường được. Còn để đáp ứng yêu cầu pháp luật, doanh nghiệp chỉ cần kết xuất ra một báo cáo riêng, vẫn trên cơ sở dữ liệu từ kết quả kiểm kê theo tiêu chuẩn TCVN. Khi đó doanh nghiệp sẽ có được con số toàn diện về lượng phát thải của mình và có cơ sở để định lượng vết carbon (hay dấu chân carbon) cho các sản phẩm của mình chính xác, tin cậy hơn, làm cơ sở cho việc tham gia trao đổi tín chỉ carbon sau này.
Trân trọng cảm ơn ông!
Để giúp các doanh nghiệp Việt Nam tại Hải Phòng nắm bắt được tổng thể các vấn đề về giảm phát thải khí nhà kính, đặc biệt là có chiến lược nâng cao năng lực phát triển theo xu thế “xanh hóa” và bền vững, đồng thời để hướng dẫn cho doanh nghiệp có khả năng thực thi bước đầu các yêu cầu kĩ thuật mới theo quy định pháp luật trong nước và quốc tế, Trung tâm chứng nhận phù hợp (QUACERT) - Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia sẽ tổ chức Hội thảo “Chuyển đổi xanh: NetZero và trung hòa các-bon; Tín chỉ các-bon và kiểm kê khí nhà kính” vào ngày 15/8 tại Hải Phòng. Hội thảo nhằm nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp về việc nhận diện các loại khí nhà kính, các phương pháp tính toán lượng phát thải khí nhà kính cũng như các biện pháp giảm thiểu khí nhà kính, các tiến trình trung hòa carbon. QUACERT đang cung cấp các khóa đào tạo liên quan đến các nội dung kể trên, đồng thời cung cấp các dịch vụ liên quan đến kiểm kê khí nhà kính, thẩm tra/thẩm định thông tin khí nhà kính của doanh nghiệp, đảm bảo tính chính xác và có độ tin cậy cao. |