Trong khoảng 100 tỷ USD dự trữ ngoại hối của Việt Nam (theo NHNN con số có thể nhiều hơn), Ngân hàng Nhà nước đã bán ra để tăng cung ứng USD cho thị trường trong giai đoạn vừa qua một lượng vừa phải.
>>> Fed tiếp tục giữ nguyên lãi suất kỷ lục trong kỳ họp tháng 5
Theo kênh thông tin của chúng tôi, kể từ ngày 19/4/2024 đến cuối tháng 4, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã bán ra khoảng 380 triệu USD từ quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia để can thiệp biến động tỷ giá và tăng cung ứng ra thị trường. Giai đoạn ngắn và con số bán ra nhỏ hơn nhiều so với khoảng 20 tỷ USD đã được bán ra để bảo vệ ổn định tỷ giá ở cuối năm 2022.
Tính từ đầu năm 2024 đến nay, tiền Đồng đã mất giá nhanh chóng (với mức giảm khoảng 4,6% ytd), đẩy chi phí nhập khẩu tăng cao nếu kéo dài.
Áp lực lạm phát và các mục tiêu cơ bản cùng diễn biến tỷ giá vẫn khiến chúng tôi giữ nguyên kịch bản cơ bản là NHNN sẽ duy trì lãi suất điều hành trong năm nay.
Theo chúng tôi, ngân hàng trung ương có thể có mức độ chấp nhận cao hơn về giảm giá tiền Đồng so với cuối năm 2022 (lần tăng lãi suất gần đây nhất), vì họ nhận thấy rằng nền kinh tế cần được hỗ trợ. Do đó, động lực của nhà điều hành sẽ là giữ lãi suất chính sách ở mức phù hợp và sử dụng các công cụ khác như nghiệp vụ thị trường mở và bán dự trữ ngoại hối để hạn chế sự mất giá của tiền Đồng.
Việc tăng lãi suất chính sách sẽ chỉ được coi là biện pháp cuối cùng nếu tiền Đồng mất giá mạnh lớn, đến một mức độ nào đó, và sau khi một phần đáng kể dự trữ của NHNN cạn kiệt.
Về lạm phát, từ diễn biến tháng 4, chúng tôi nâng dự báo lạm phát năm 2024 lên +3,7%.
Trong tháng 4, lạm phát toàn phần đã tăng lên mức cao nhất trong 15 tháng là +4,4% trong tháng 4 (so với +4% trong tháng 3). Sự tăng trưởng chủ yếu là do cơ sở thấp, với giá chỉ tăng +0,17% so với tháng trước. Lạm phát cơ bản vẫn còn ổn định, ở mức +2,8% trong tháng 4.
Nhà ở và xây dựng, giao thông và y tế là nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát cao hơn. Trong đó, nNhà ở & xây dựng (+6% so với +4,9% trong tháng 3) tăng +0,2% so với tháng trước do sự gia tăng nhu cầu điện trong bối cảnh thời tiết nắng nóng kéo theo giá điện tăng cao. Vận tải (+4,2% so với +2,7% trong tháng 3) tăng +2% so với tháng trước, chủ yếu do giá dầu toàn cầu cao hơn do chi phí nhiên liệu.
>>>Cẩn trọng lỗ chênh lệch tỷ giá
Sức khỏe (+7,4% so với +6,5% trong tháng 3) tăng +0,9% MoM, do thời tiết nắng nóng dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh cao hơn bệnh tật, làm tăng nhu cầu về thuốc và dịch vụ y tế.
Chúng tôi nâng dự báo lạm phát chung lên và cho rằng lạm phát toàn phần có khả năng duy trì ở mức cao trên 4% ít nhất là trong quý thứ hai. Tỷ giá biến động với sự mất giá của tiền Đồng cũng đang gây khó khăn ít nhiều cho các mục tiêu kềm giữ lạm phát.
Tuy nhiên, nền kinh tế đang có những tín hiệu tích cực. Đáng chú ý là xuất khẩu tiếp tục phục hồi trong tháng 4, mặc dù tốc độ tăng trưởng vẫn phân hóa với ngành điện tử vượt trội so với các ngành khác các sản phẩm. Nhu cầu tiêu dùng vẫn thận trọng, dự kiến sẽ phục hồi đáng kể hơn chỉ trong quý II.
Một số điểm đáng lưu ý trong xuất khẩu là: Xuất khẩu tạm thời chậm lại do sản xuất công nghiệp tăng lên. Cụ thể tăng trưởng xuất khẩu vẫn mạnh ở mức +10,6% trong tháng 4, mặc dù chậm hơn so với tháng trước tháng (+13%). Sản lượng công nghiệp tăng nhanh hơn +6,3% (so với +4,1% trong tháng 3), với sản xuất tăng lên +7% (so với +4,6% trong tháng 3).
Sự chậm lại trong tăng trưởng xuất khẩu có thể chỉ là tạm thời vì nó phản ánh ngày làm việc ít hơn so với tháng 4 năm ngoái, do trong thời gian nghỉ lễ. Trên cơ sở hàng tháng, xuất khẩu giảm -8,1%, sau mức tăng +36% của tháng trước.
Tăng trưởng xuất khẩu vẫn không đồng đều, trong đó các sản phẩm công nghệ vượt trội so với các sản phẩm còn lại. Một số mặt hàng vẫn còn chắp vá khiến các chỉ số tăng trưởng giảm xuống như Dệt may (-0,6%), giày dép (-5,4%) và thủy sản (-1,5%)... Nhập khẩu trong khi đó chứng kiến mức tăng trên diện rộng lên +19,9% (so với +9% trong tháng 3), đẩy mức thặng dư thương mại xuống mức thấp nhất trong 15 tháng (680 triệu USD).
Một cuộc khảo sát PMI trước đó cho thấy các tín hiệu phù hợp với phục hồi trong sản xuất công nghiệp. Cuộc khảo sát nhấn mạnh các nhà sản xuất ngày càng tự tin hơn rằng họ có thể tăng sản lượng, với sự lạc quan trong kinh doanh ở mức mạnh nhất kể từ tháng 9/2022. Chúng tôi tiếp tục cho rằng sản xuất có thể sẽ bắt kịp xuất khẩu, do số lượng đơn đặt hàng mới tăng và hàng tồn kho cạn kiệt.
Doanh số bán lẻ thấp mặc dù có sự thúc đẩy của du lịch. Chúng tôi kỳ vọng mức tiêu thụ sẽ chỉ tăng mạnh hơn trong nửa cuối năm, bởi các hộ gia đình địa phương vẫn còn tương đối thận trọng trong chi tiêu trong năm nay, có thể do xuất khẩu phục hồi không đồng đều và lạm phát tăng cao. Hơn nữa, Tổng cục Thống kê chỉ ra rằng thị trường lao động chưa có nhiều cải thiện về chất lượng lao động, với số lượng lao động phi chính thức chiếm tỷ lệ khá lớn 64,8% tổng số lao động thuê người làm. Việc làm phi chính thức tăng +0,7% YoY (+240 nghìn) lên 33,3 triệu công nhân trong quý đầu tiên.
Đầu tư FDI có khả năng tiếp tục phục hồi, nhưng những thách thức đặc biệt về rủi ro năng lượng là yếu tố cần lưu ý. Những giải pháp để khắc phục rủi ro thiếu điện, như tăng cường sử dụng than nhập khẩu và hoàn thiện đường dây 500kV Miền Trung-Bắc; Phát hành sớm của cơ chế thỏa thuận mua bán điện trực tiếp (DPPA)... sẽ là chìa khóa để hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài.
Lưu ý yếu tố điện trong bối cảnh nắng nóng và nhu cầu tiêu thụ năng lượng lên cao kỷ lục không chỉ sẽ tác động đến nhà đầu tư nước ngoài, còn là yếu tố tác động đến các cấu phần tăng giá trong rổ CPI - thước đo cho lạm phát.
Chúng tôi tiếp tục duy trì dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ ở mức +5,8% vào năm 2024.
Có thể bạn quan tâm
Tỷ giá vẫn căng
02:36, 26/04/2024
Trích lập 200 tỷ đồng dự phòng cho tỷ giá - Thế khó của HPG
05:28, 27/04/2024
Giải pháp ổn định tỷ giá
05:20, 20/04/2024
Rủi ro tăng tỷ giá với nhóm cổ phiếu nào?
12:00, 15/04/2024
Tăng cung vàng và tỷ giá
05:00, 13/04/2024
Fed chưa cắt giảm lãi suất, Trung Quốc ưu tiên ổn định tỷ giá
05:20, 09/04/2024