Tiếng Việt và đặc điểm tư duy Việt

Diendandoanhnghiep.vn Đặc điểm tư duy của một cộng đồng người chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: các điều kiện tự nhiên (địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng…),

Hình thái kinh tế-xã hội, truyền thống văn hóa, sự giao lưu giữa các cộng đồng… cả những sự kiện và yếu tố ngẫu nhiên, nhưng quan trọng nhất là ngôn ngữ.

Việc học các môn ngoại ngữ theo lộ trình là hết sức quan trọng nhằm phát triển tư duy ngôn ngữ. Ảnh: iSMART

Việc học các môn ngoại ngữ theo lộ trình là hết sức quan trọng nhằm phát triển tư duy ngôn ngữ. Ảnh: iSMART

Con người không thể tư duy bên ngoài ngôn ngữ

Lý do khá hiển nhiên: ngôn ngữ là công cụ tư duy - con người hầu như không thể tư duy bên ngoài ngôn ngữ. Bạn có thể phản bác: âm nhạc hay hội họa đâu có cần ngôn ngữ? Thật ra, khi sáng tác, nghiên cứu hoặc thưởng thức âm nhạc và hội họa, chúng ta vẫn cần một thứ nội ngôn, cái mà chúng ta hay gọi là “tư tưởng” hay “thông điệp” của tác phẩm.

Ví dụ dễ thấy nhất là những cái tên tác phẩm: “Bức thư gửi Elise” (Beethoven), “Bốn mùa” (Vivaldi), “Những cô gái Avignon” (Picasso)… Trong đời sống cũng vậy. Chẳng hạn, cô gái lần đầu được chàng trai mời đi chơi tối thứ bảy. Cô tự hỏi: nên mặc gì?

Mặc quá đẹp, anh ta có thể nghĩ mình quá thích anh ta. Mặc quá đơn giản, anh ta lại nghĩ rằng mình thiếu óc thẩm mỹ. Vậy mình nên mặc bộ này, đủ đẹp, đủ để anh ta biết rằng mình có cảm tình nhưng không quá vồ vập… Thứ nội ngôn như vậy đóng vai trò sợi chỉ xuyên suốt những hành động xã hội có ý nghĩa của con người.

Ảnh hưởng của ngôn ngữ đối với tư duy đã được nhiều người nghiên cứu, nổi tiếng nhất là Edward Sapir và học trò là Benjamin Whorf. Nhưng trước Sapir khoảng một thế kỷ, Wilhelm von Humboldt, trong Gesammelte Werke, đã viết rằng con người căn bản là sống trong một thế giới được ngôn ngữ của anh ta thể hiện. Heidegger cũng lập luận rằng ngôn ngữ không đơn thuần là phương tiện giao tiếp mà là một chiều kích tồn tại của cuộc sống con người.

Có thể bạn quan tâm

Luận điểm của chúng tôi gần gũi nhưng không hoàn toàn giống cấp độ yếu của “Giả thuyết Sapir-Whorf ”. “Giả thuyết Sapir-Whorf ” được biết dưới hai cấp độ: Cấp độ mạnh khẳng định hình ảnh và cách diễn giải thế giới do ngôn ngữ quyết định. Cấp độ yếu cho rằng ngôn ngữ ảnh hưởng đến sự tiếp nhận thế giới.

Trong mọi trường hợp, “Giả thuyết Sapir-Whorf ” cho rằng cách thức mã hóa thông tin của một ngôn ngữ quy định thế giới quan của những người nói ngôn ngữ đó. Nhiều người đã tìm cách xác định ảnh hưởng của ngôn ngữ đối với trải nghiệm của chúng ta về thế giới.

Năm 1954, Brown và Lenneberg đã cố gắng kiểm tra xem sự khác biệt về từ chỉ màu sắc trong các ngôn ngữ khác nhau ảnh hưởng ra sao đến sự phân biệt màu sắc của những người nói các thứ tiếng đó.

Các học sinh Việt Nam trò chuyện bằng tiếng Anh với robot NAO từ iSMART tại Diễn đàn Giáo dục Sáng tạo Việt Nam.

Các học sinh Việt Nam trò chuyện bằng tiếng Anh với robot NAO từ iSMART tại Diễn đàn Giáo dục Sáng tạo Việt Nam.

Một ví dụ khác: Trong công trình xuất bản năm 1983, Ekkehart Malotki nghiên cứu cách thể hiện thời gian trong ngôn ngữ Hopi và bác bỏ tuyên bố của Whorf rằng tiếng Hopi không có từ cũng như các hình thức và cấu trúc ngữ ngữ pháp mô tả trực tiếp thời gian. Vì thế, người nói tiếng Hopi không có ý niệm hay trực giác về thời gian như là một dòng chảy liên tục của vũ trụ từ quá khứ, qua hiện tại tới tương lai.

Bản chất tư duy của người Việt

Điều chúng tôi quan tâm hơi khác. Theo chúng tôi, đặc điểm ngữ pháp của ngôn ngữ ảnh hưởng chủ yếu đến cách tư duy, mặc dù có thể có hay không có ảnh hưởng, hoặc ảnh hưởng ít hay nhiều, đến sự tiếp nhận thực tại, tức là đối tượng tư duy.

Nói cách khác, chúng tôi không bàn đến ảnh hưởng của ngôn ngữ đến hình ảnh của thế giới, mà chỉ quan tâm đến ảnh hưởng của ngôn ngữ đến cách hành xử của chúng ta khi tiếp cận thế giới. Điều này cũng giống như đặc điểm của phương tiện giao thông có ảnh hưởng quyết định đến cách thức chúng ta tham gia giao thông, chứ không nhất thiết phải ảnh hưởng đến bản thân đối tượng hay địa điểm mà chúng ta muốn tiếp cận.

Ngữ pháp của các ngôn ngữ khác ảnh hưởng đến cách nghĩ của chúng ta như thế nào? Trước hết, căn cứ vào đặc điểm ngữ pháp, chúng ta có thể phân biệt hai loại ngôn ngữ chính, đó là ngôn ngữ tổng hợp, mà đại diện điển hình là các ngôn ngữ Ấn-Âu, như tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Pháp…, và các ngôn ngữ phân tích, điến hình là tiếng Hán và các thứ tiếng Đông Nam Á như tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Khmer….

Ngữ pháp của các thứ tiếng Ấn - Âu có đặc điểm hình thức rất cao, với những ràng buộc logic và hình thức rất gay gắt - dĩ nhiên ở mức độ và sự thể hiện khác nhau ở các ngôn ngữ khác nhau - đối với các thành phần của nó: về giống, số, cách của danh từ; về thời, thể, thức của động từ v.v…, và cùng với chúng là sự phù hợp của số từ, mạo từ, tính từ, đại từ quan hệ...

Âm nhạc là một loại ngôn ngữ, một cách tuyệt vời để thể hiện bản thân, thể hiện những sắc thái cuộc sống, tình cảm mà không cần phải diễn tả bằng lời. Ảnh: WISDOM

Âm nhạc là một loại ngôn ngữ, một cách tuyệt vời để thể hiện bản thân, thể hiện những sắc thái cuộc sống, tình cảm mà không cần phải diễn tả bằng lời. Ảnh: WISDOM

Chẳng hạn, hãy so sánh hai câu đơn giản như trong tiếng Nga: “Книги, которые я купил вчера очень красивые” (Những cuốn sách mà tôi mua hôm qua rất đẹp) và “Книга, которую она купила вчера очень
красивая” (Cuốn sách mà cô ấy mua hôm qua rất đẹp).

Chúng ta nhận thấy rằng, trước khi nói, người nói đã phải xác định đặc điểm và vai trò của từ “Cuốn sách” trong câu để xác định giống (đực, cái, trung), số (nhiều, ít), và cách (danh cách, đối cách, thuộc cách, tặng cách, công cụ cách, giới từ cách) của nó để xác định dạng thức của nó.

Những thông tin này lại quyết định dạng thức của liên từ (которые, которую) và tính từ (красивые, красивая). Tương tự như vậy, người nói cũng phải xác định các thông tin về chủ ngữ (giống, số) và thời gian để lựa chọn dạng thức của động từ (купил, купила). Do áp lực của logic và hình thức gay gắt như vậy, hành động nói của người phương Tây là sự thực hiện một kế hoạch phát ngôn được chuẩn bị trước.

Ngược lại, trong các phát ngôn tiếng Việt, các từ đơn lập không biến hình. Chức năng ngữ pháp của mỗi từ phụ thuộc gần như hoàn toàn vào vị trí của nó trong câu và tình huống phát ngôn. Người ta luôn luôn có thể bắt đầu một phát ngôn bằng một từ rồi liên tục thêm, gần như không giới hạn, các từ mới vào phát ngôn đó. Mỗi lần thêm như vậy lại làm thay đổi chức năng của các từ đứng trước. Chẳng hạn:

Cô gái đang ăn cơm. (“Đang ăn cơm” là vị ngữ) Cô gái đang ăn cơm rất đẹp. (“Đang ăn cơm” trở thành bổ ngữ; “rất đẹp” là vị ngữ) Cô gái đang ăn cơm rất đẹp nhưng có vẻ buồn. (“rất đẹp nhưng có vẻ buồn” là
vị ngữ). Cô gái đang ăn cơm rất đẹp nhưng có vẻ buồn là em họ người bạn cũ của tôi. (“đang ăn cơm rất đẹp nhưng có vẻ buồn” là bổ ngữ)

Những ví dụ như vậy có thể kéo dài và cho thấy rằng lối nói của người Việt dựa vào tình huống chứ không tuân theo một kế hoạch định trước, nghĩa là có nhiều tính linh hoạt mà ít tính nguyên tắc. Bản chất lối nói của người Việt là tạo ra một phát ngôn thích ứng với hoàn cảnh.

Đặc điểm của tiếng Việt quy định đặc điểm tư duy người Việt: không thiên về logic, tư biện, mà thiên về hành động; không thích kế hoạch, nguyên tắc mà có xu hướng coi trọng sự thích ứng, uyển chuyển; không duy lý mà duy tình.

Đánh giá của bạn:

Mời các bạn tham gia vào group Diễn đàn Doanh nghiệp để thảo luận và cập nhật tin tức.

Bạn đang đọc bài viết Tiếng Việt và đặc điểm tư duy Việt tại chuyên mục Thời sự của Tạp chí Diễn đàn doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác: email toasoan@dddn.com.vn, hotline: 0985698786,
Bình luận
Bạn còn /500 ký tự
Xếp theo: Thời gian | Số người thích
SELECT id,type,category_id,title,description,alias,image,related_layout,publish_day FROM cms_post WHERE `status` = 1 AND publish_day <= 1711727981 AND in_feed = 1 AND top_home <> 1 AND status = 1 AND publish_day <= 1711727981 ORDER BY publish_day DESC, id DESC LIMIT 0,11
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10