Các FTA không chỉ giúp đa dạng hóa thị trường, giảm sự phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống, mà còn tạo điều kiện thu hút nguồn vốn FDI chất lượng cao…
Đây là chia sẻ của ông Trịnh Minh Anh - Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế tại DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP 2025: Trợ lực cho doanh nghiệp vượt qua thách thức, nâng cao năng lực cạnh tranh do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức chiều 17/4/2025.
Theo ông Trịnh Minh Anh, Việt Nam là nền kinh tế mở, có độ mở rất cao, từ 1986 khi mở cửa, Việt Nam đã tích cực hội nhập kinh tế toàn cầu với nhiều hiệp định thương mại tự do… tính đến năm 2025, tổng số các FTA Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán lên tới 20 FTA, với 16 FTA đang thực thi, trong đó có các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA và RCEP. Các hiệp định này đã mở ra thị trường rộng lớn với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm khoáng 90% GDP toàn cầu.
Những con số minh chứng cho thành công của việc thực thi FTA là rất ấn tượng. Trong ba năm gần đây, Việt Nam liên tục nằm trong top 20 quốc gia có quy mô thương mại quốc tế lớn nhất thế giới, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt khoảng 12,5% mỗi năm. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt mốc 786 tỷ USD, trong đó xuất khẩu vượt 405 tỷ USD, thặng dư thương mại gần 25 tỷ USD, ghi nhận xuất siêu năm thứ 9 liên tiếp. Nhờ đó, Việt Nam đứng thứ 17 trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới.
Đóng góp vào kết quả trên, kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường đã ký FTA như EU, Canada, và các nước CPTPP đều ghi nhận tăng trưởng tích cực, (ví dụkim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong năm 2024 đạt 52,1 tỷ USD, tăng 19,3% so với năm 2023.kim ngạch xuất khẩu sang Canada trong năm 2024 đạt khoảng 7,5 tỷ USD, tăng 22,7% so với năm 2023). Tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan theo FTA của doanh nghiệp Việt Nam đạt khoảng 37% trong năm 2024.
“Các FTA không chỉ giúp đa dạng hóa thị trường, giảm sự phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống, mà còn tạo điều kiện thu hút nguồn vốn FDI chất lượng cao từ các đối tác lớn như Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore; tạo cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Trịnh Minh Anh chia sẻ.
Đồng thời cho rằng, dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng việc khai thác các FTA vẫn chưa tương xứng với tiềm năng do nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vẫn thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về các quy tắc xuất xứ, thủ tục ưu đãi thuế quan; các rào cản phi thuế ngày càng gia tăng như yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, lao động… đặt ra thách thức lớn cho khả năng đáp ứng của hàng Việt; tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành còn thấp, ảnh hưởng đến khả năng tận dụng ưu đãi FTA đã ký.
Cũng theo ông Trịnh Minh Anh, bối cảnh thương mại toàn cầu hiện nay đang có nhiều biến động. Xung đột địa chính trị, biến đổi khí hậu, xu hướng bảo hộ gia tăng và đặc biệt là việc Hoa Kỳ có khả năng áp dụng một số biện pháp thuế đối ứng với hàng xuất khẩu từ các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đã và đang đặt ra những thách thức lớn… tuy nhiên, việc tạm hoãn thuế 90 ngày và áp mức 10% trong thời gian đàm phán tạo cơ hội cho Việt Nam thương thảo, đa dạng hóa thị trường (EU, Nhật Bản, ASEAN) và tái cấu trúc chuỗi cung ứng để giảm thiểu rủi ro.
“Trước tình hình này, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã chủ trì, thành lập ngay Đoàn đàm phán Chính phủ về các vấn đề thương mại với Hoa Kỳ và Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành kinh tế là cơ quan phụ trách việc tổ chức, điều phối đoàn đàm phán. Trước mắt, chúng ta sẽ đưa ra phương án thương thảo với Hoa Kỳ để đạt kết quả tốt nhất… tuy nhiên, giải pháp để đat được mục tiêu bền vững và lâu dài trong tăng trưởng xuất khẩu thì đòi hỏi chúng ta phải hành động quyết liệt hơn để khai thác hiệu quả các FTA hiện có, mở rộng thị trường, giảm phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống và thích nghi với những chuẩn mực thương mại ngày càng cao”, ông Trịnh Minh Anh bày tỏ.
Và trước thực tiễn đã nêu, để doanh nghiệp tận dụng hiệu quả các FTA, ông Trịnh Minh Anh khuyến nghị:
Doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ các quy định về thuế quan, quy tắc xuất xứ (C/O), tiêu chuẩn kỹ thuật, và các cam kết phi thương mại (lao động, môi trường, phát triển bền vững) trong từng FTA (như CPTPP, EVFTA, UKVFTA); tham dự các hội thảo, khóa học do Bộ Công Thương, VCCI hoặc hiệp hội ngành hàng tổ chức để nắm bắt thông tin và cách thức tận dụng ưu đãi; Khai thác Cổng thông tin FTA của Bộ Công Thương (ftaportal.moit.gov.vn) để tra cứu biểu thuế, quy định, và hướng dẫn thực thi FTA; cập nhật thông tin cảnh báo sớm về các vụ việc phòng vệ thương mại từ Bộ Công Thương…
Bên cạnh đó, cần tối ưu hóa quy tắc xuất xứ (C/O), đảm bảo sản phẩm đáp ứng quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan, như tỷ lệ nội địa hóa hoặc xuất xứ thuần túy theo quy định của từng FTA; liên kết với nhà cung cấp trong nước hoặc khu vực FTA để tăng tỷ lệ nguyên liệu nội khối, giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu ngoài khu vực.
Nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua cải thiện chất lượng sản phẩm: Đầu tư vào công nghệ, đổi mới mẫu mã, và đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường FTA (như tiêu chuẩn xanh của thị trường EU); tham gia các hiệp hội ngành hàng; phối hợp với các hiệp hội để nắm bắt thông tin thị trường, giải quyết khó khăn (như chi phí vận chuyển, rào cản kỹ thuật) và các vụ tranh chấp quốc tế; ứng phó với các vụ kiện phòng vệ thương mại…
“FTA chính là cơ hội để Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới. Nhưng việc khai thác các lợi thế của FTA lại phụ thuộc vào khả năng của từng doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp sẽ tìm được hướng đi của riêng mình, tận dụng hiệu quả nhất những cơ hội từ FTA, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế đất nước”, ông Trịnh Minh Anh nhấn mạnh.
Trân trọng cảm ơn sự đồng hành của: Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN); Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam (VietinBank).