Ông Hà Huy Tuấn đề xuất Việt Nam cần tiến hành một số hoạt động mang tính lâu dài như xây dựng khung pháp lý thử nghiệm, hoàn chỉnh đối với Fintech.
Sáng nay (20/6), dưới sự bảo trợ của ĐHQGHN và Cộng đồng Pháp ngữ, Viện Quốc tế Pháp ngữ (IFI) cùng với trường ĐH quản trị Normandie (Cộng hòa Pháp) và Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI tổ chức Hội thảo quốc tế “Công nghệ tài chính trong nền kinh tế thông minh” nhằm nhận diện những thách thức và cơ hội đối với lĩnh vực tài chính trong thời đại chuyển đổi số liên quan tới mọi mặt của đời sống, kinh tế-xã hội; khuôn khổ pháp lý, bảo mật và an toàn thông tin…
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ KHCN Bùi Thế Duy bày tỏ mong muốn trong thời gian tới, Việt Nam sẽ phát triển hơn nữa việc ứng dụng công nghệ vào tài chính, từ đó hình thành nên các doanh nghiệp mới chuyên về Fintech.
Việt Nam đang là quốc gia đi đầu, tiên phong tại khu vực Đông Nam Á trong việc tiếp cận nhiều xu hướng mới nổi trên thế giới, trong đó có việc ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh số hóa trong lĩnh vực tài chính. Đối với những xu hướng, mô hình kinh doanh mới nổi như Fintech, Việt Nam cũng đã có nhiều hoạt động gồm cả về nghiên cứu, phát triển, đào tạo và ứng dụng.
Ông Ngô Tự Lập, Viện trưởng Viện Quốc tế Pháp Ngữ (IFI) – ĐHQGHN cho biết, Fintech đang phát triển nhanh và mạnh mẽ, làm thay đổi sâu sắc phương thức và mô hình kinh doanh, tạo ra nhiều cơ hội cũng như nhiều rủi ro đối với các chủ thể tham gia trên thị trường. Công nghệ tài chính Fintech đang phát triển nhanh và mạnh mẽ, làm thay đổi sâu sắc phương thức và mô hình kinh doanh, cũng như tác động đến hành vi của các chủ thể tham gia thị trường (khách hàng, các nhà cung ứng dịch vụ khách hàng, các công ty cung cấp các dịch vụ bổ trợ, các cơ quan quản lý nhà nước liên quan). Những thay đổi này tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh mới, nhưng cũng hàm chứa nhiều rủi ro cho các chủ thể tham gia thị trường và những thách thức đối với các tổ chức quản lý nhà nước về tài chính, tiền tệ và các tổ chức kinh doanh.
Theo ông Hà Huy Tuấn – Phó chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, tác động Fintech tới ngành dịch vụ tài chính có hai vấn đề lớn. Thứ nhất nó sẽ thay đổi sâu sắc cấu trúc các sản phẩm tài chính, cấu trúc thị trường tài chính, hành vi khách hàng, mô hình kinh doanh. Thứ hai, Fintech sẽ tạo ra sự mới mẻ trong các mối quan hệ giữa nhà cung ứng dịch vụ (công ty Fintech, ngân hàng) với khách hàng, mối quan hệ giữa nhà cung ứng giải pháp với ngân hàng.
Những thay đổi này tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh mới, nhưng cũng hàm chứa nhiều rủi ro cho các chủ thể tham gia thị trường, và những thách thức đối với các tổ chức quản lý nhà nước về tài chính, tiền tệ và các tổ chức kinh doanh.
Theo ông Hà Huy Tuấn, đối với việc phát triển Fintech, nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới cũng đã có những chính sách cụ thể, riêng biệt để thúc đẩy hình thái này. Trong khi đó, khuôn khổ pháp lý cho Fintech tại Việt Nam còn sơ khai.
Lấy ví dụ cụ thể, Phó chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cho biết tại Hàn Quốc tính tới tháng 4/2019 có gần 600 công ty Fintech và quốc gia này cũng đã hình thành nên một hệ thống quy định pháp lý tương đối hoàn chỉnh về lĩnh vực này như: Đạo luật giao dịch tài chính điện tử (EFTA) –2006; Đạo luật bảo vệ thông tin cá nhân (PIPA) –2011; Quy định về cho vay ngang hàng (P2P Lending Guidelines) – 2012; Đạo luật đặc biệt về khuyến khích đổi mới trong lĩnh vực tài chính – có hiệu lực từ 1/4/2019; Đạo luật Báo cáo Giao dịch tài chính (FTRA); Đạo luật; Bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại điện tử; Đạo luật Giao dịch ngoại hối.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc cũng có ưu tiên hỗ trợ các doanh nghiệp Fintech thâm nhập thị trường, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, thành lập trung tâm Fintech Hàn Quốc (tháng 3/2015) và Khuyến khích các tập đoàn lớn phát triển Fintech (Kakao Pay - N Pay - Samsung Pay- Kakao Bank - K-Bank).
Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia cho rằng, đối với Việt Nam, chúng ta có tiềm năng phát triển Fintech rất lớn. Số lượng các công ty Fintech tăng gấp đôi lên gần 100 công ty (năm 2016 có 40 công ty), trải rộng trên nhiều lĩnh vực. "Nhưng tiềm năng lớn nhưng đối với Fintech, chúng ta mới chỉ khai phá ở mức độ thấpvà khuôn khổ pháp lý cho Fintech tại Việt Nam còn sơ khai, chủ yếu là một số đề án mang tính vĩ mô và quy định về thanh toán” – ông Hà Huy Tuấn cho biết.
Trước thực trạng trên, ông Hà Huy Tuấn đề xuất Việt Nam cần tiến hành một số hoạt động mang tính lâu dài như xây dựng khung pháp lý thử nghiệm (regulatory sandbox) - cơ chế cho phép các công ty Fintech startup được thí điểm/thử nghiệm các sản phẩm, dịch vụ trước khi cung ứng sản phẩm chính thức ra thị trường; Xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh đối với Fintech bao trùm các hoạt động dịch vụ Fintech, bảo vệ người tiêu dùng, phòng chống rửa tiền…
Đồng thời, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý/ngân hàng trung ương và các đối tượng chịu sự điều chỉnh của khung khổ pháp lý về Fintech; Phối hợp giữa cộng đồng Fintech trong nước và quốc tế”, ông Hà Huy Tuấn nhấn mạnh.
Trong khuôn khổ chương trình hội thảo, Viện IFI cũng chính thức ra mắt Phòng thí nghiệm Fintech (Fintech Lab) do Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hiển phụ trách. Theo đó, Fintech Lab trực thuộc Phòng Nghiên cứu truyền thông Văn hóa và khởi nghiệp thuộc Viện IFI, Fintech Lab có chức năng nghiên cứu, đào tạo và phát triển ứng dụng công nghệ thuộc lĩnh vực tài chính.
Fintech Lab được thành lập không chỉ với ý tưởng của IFI mà còn dưới sự hậu thuẫn hỗ trợ, thúc đẩy của các đối tác như Tibco, Kaspersky Lab ... cùng với các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực Big Data, AI. "Chúng tôi định hướng phát triển Fintech Lab trở thành phòng thí nghiệm trọng điểm của trường ĐHQGHN, với 4 lĩnh vực chuyên môn chính: Nghiên cứu hàn lâm, nghiên cứu và phát triển những ứng dụng rất cụ thể, nghiên cứu những thực trạng về hệ sinh thái khởi nghiệp Fintech, xây dựng chương trình kêu gọi vốn hỗ trợ cho các ý tưởng khởi nghiệp trong ngành Fintech" TS Nguyễn Văn Hiển cho biết.
Bên cạnh đó, chia sẻ tại hội thảo TS Hiển chia sẻ thêm về chương trình đào tạo của Fintech Lab, theo đó điểm đặc biệt của chương trình là đào tạo dưới dạng ngắn hạn, cầm tay chỉ việc, 20% lý thuyết 80% cầm tay chỉ việc. Kết quả đào tạo nhằm mục đích cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành Fintech của Việt Nam.