CPTPP (TPP11) về tổng thể vẫn có lợi cho Việt Nam so với trường hợp không tham gia, tuy nhiên thấp hơn khá nhiều so với trường hợp TPP (TPP12).
Cụ thể, do tác động của cắt giảm thuế quan, TPP11 có thể giúp GDP tăng thêm 1,32%, tương đương với 1,7 tỷ USD (trong TPP12, con số này là khoảng 6,7 %). Tác động này có thể sẽ lớn hơn nếu Việt Nam thực hiện đồng thời cắt giảm thuế quan và tự do hóa dịch vụ theo kịch bản mở cửa dịch vụ (2,01%). Với giả định mức tác động lũy tiến tới 2035, trung bình mức GDP tăng thêm mỗi năm khoảng 0,016 %, tương đương khoảng 0,02 tỷ USD/năm.
Đạt được lợi ích từ xuất khẩu
Việt Nam cũng đạt được lợi ích từ xuất khẩu với tổng mức tăng thêm về kim ngạch xuất khẩu là trên 4% (tương đương 4,09 tỷ USD) so với không có TPP. Tổng kim ngạch nhập khẩu cũng sẽ tăng thêm ở mức 3,8-4,6% (tương đương 4,93 tỷ USD). Do tốc độ tăng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu, nguy cơ thâm hụt thương mại có thể được kiềm chế theo thời gian. Mức tăng thêm về xuất, nhập khẩu thấp hơn rất nhiều so với trường hợp của TPP12 (xuất khẩu tăng thêm 15% và nhập khẩu tăng thêm trên 10%).
Có thể bạn quan tâm
17:49, 13/09/2018
16:12, 13/09/2018
15:30, 21/07/2018
12:18, 23/05/2018
09:26, 23/05/2018
09:31, 22/05/2018
04:50, 19/04/2018
Việc tăng xuất khẩu sẽ chủ yếu là sang các nước trong TPP11. Tốc độ tăng xuất khẩu sang các nước trong TPP11 sẽ tăng thêm ở mức 14,3% (giả định lũy tiến đến năm 2035), tương đương với 2,61 tỷ USD, trong khi xuất khẩu sang các nước ngoài TPP tăng thêm 1,7% (tương đương 1,4 tỷ USD). Điều này cho thấy TPP có tác động chuyển hướng thương mại khá lớn và việc tham gia TPP11 có thể giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
Tuy nhiên, đối với nhập khẩu, mức độ nhập khẩu tăng thêm do TPP11 từ các nước trong khối là không lớn, và việc tăng thêm nhập khẩu sẽ chủ yếu là từ các nước ngoài TPP (tăng thêm 3,8 tỷ USD, chiếm 83% tổng nhập khẩu tăng thêm). Mặc dù tốc độ tăng nhập khẩu nội khối có tăng cao hơn so với ngoại khối nhưng không nhiều.
Theo kết quả này, Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục phải phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ một số nước hiện nay như Trung Quốc, Hàn Quốc ngay cả khi có TPP11. Điểm này rất đáng chú ý do việc nhập khẩu ngoài TPP có thể làm cho Việt Nam không được hưởng lợi nhiều vì quy định nguồn gốc xuất xứ trong TPP.
Với ngân sách, TPP11 có hai loại tác động. Tác động trực tiếp do việc cắt giảm thuế quan xuất nhập khẩu cũng như tự do hóa dịch vụ và đầu tư làm giảm nguồn thu; tác động từ việc tăng trưởng do TPP11 đem lại làm tăng nguồn thu nội địa. Hiện nay mức thu từ thuế xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng khá thấp trong tổng thu ngân sách. Trong cả giai đoạn 2010-2016 thuế xuất nhập khẩu và thu từ chênh lệch giá hàng xuất, nhập khẩu chiếm khoảng 10,1% tổng thu từ thuế và có xu hướng giảm. Năm 2016 tỷ trọng này chỉ còn 8,74%. Tính toán sơ bộ cho thấy TPP11 không tác động nhiều tới thu ngân sách (tăng ở mức rất thấp khoảng 0,6%). Cũng giống như trường hợp tăng trưởng GDP, TPP11 có thể làm giảm nguồn thu ở giai đoạn đầu và tăng ở giai đoạn sau, tuy nhiên tổng mức tăng là không đáng kể.Thực tế này cũng tương tự như trường hợp FTA giữa Việt Nam - EU (EVFTA), làm ảnh hưởng khá tiêu cực tới thu ngân sách (giảm 0,1 tỷ USD) và được bù đắp vào giai đoạn sau đó.
Tác động của TPP tới FDI vào Việt Nam xuất phát từ mở cửa đầu tư và giảm rủi ro đầu tư thông qua các cam kết về bảo hộ đầu tư; tự do hóa dịch vụ và; tận dụng quy định về nguồn gốc xuất xứ trong thương mại. Một số nghiên cứu trước đây cho thấy, với TPP12, dòng đầu tư FDI vào Việt Nam sẽ tăng khoảng 14,4% tới năm 2030 (bình quân mỗi năm tăng thêm trên 1%).
Không tác động nhiều tới luồng đầu tư
Các phân tích cho thấy tự do hóa và cải thiện môi trường đầu tư từ TPP11 có thể không tác động nhiều tới luồng đầu tư, đặc biệt với trường hợp của Việt Nam. Có ba lý do dẫn đến kết luận này.
Một là, bản thân môi trường đầu tư của Việt Nam đã cải thiện rất nhiều trong thời gian qua, đặc biệt là những sửa đổi trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư (2014). Chỉ số hạn chế đầu tư của Việt Nam đã giảm rất nhanh từ 0,43 xuống còn 0,11 (4 lần). Việt Nam là một trong những nước có tốc độ cải thiện môi trường đầu tư nhanh nhất trong ASEAN.
Hai là, các đối tác đầu tư lớn trong TPP11 (Úc, Nhật Bản, Singapore) đều đã tham gia các FTA với Việt Nam trong đó, các cam kết về đầu tư đã được mở rộng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ba là, với TPP12, thị trường Mỹ quá hấp dẫn, làm cho các nước ngoài khối TPP đầu tư vào Việt Nam để tận dụng xuất khẩu sang Mỹ. Điều này có thể thấy khá rõ với luồng đầu tư từ Trung Quốc trong giai đoạn 2012-2015, trong đó cơ cấu đầu tư của Trung Quốc vào ngành dệt may và da giày tăng từ 6% lên 58%. Với TPP11, lợi thế từ xuất khẩu vào thị trường Mỹ không còn, vì vậy không quá hẫp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Phân tích cho thấy tác động của tự do hóa đầu tư trong TPP11 tới tăng trưởng của Việt Nam ở mức thấp nhất trong số 11 nước TPP (0.003 điểm %), tương tự với Nhật Bản, Chile (cao nhất là Malaysia và Singapore). Một nghiên cứu khác cũng cho thấy việc tăng luồng đầu tư vào Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều vào các biến động địa chính trị khu vực, chiến lược của các công ty đa quốc gia cũng như chiến lược thu hút FDI của các quốc gia khác trong khu vực như Trung Quốc, và ASEAN. Vì vậy có thể kết luận tác động của TPP11 lên việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là không lớn.