Mặc dù đã đi qua các làn sóng dịch bệnh, nhưng nhiều doanh nghiệp FDI tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn liên quan đến chuỗi cung ứng toàn cầu, khi chi phí vận chuyển đã tăng phi mã…
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về chuỗi cung ứng. Tuy nhiên có thể hiểu đơn giản như sau: “Chuỗi cung ứng là một hệ thống các hoạt động cung cấp, sản xuất và phân phối một sản phẩm hoặc dịch vụ từ nhà cung cấp đầu tiên đến người tiêu dùng cuối cùng”.
Từ đó, ta có thể định nghĩa chuỗi cung ứng toàn cầu như sau: “Chuỗi cung ứng toàn cầu bao gồm tất cả các hoạt động liên quan đến việc cung cấp, sản xuất và phân phối một sản phẩm hoặc dịch vụ từ nhà cung cấp đầu tiên đến người tiêu dùng cuối cùng trên phạm vi toàn cầu”.
Chuỗi cung ứng toàn cầu là một mạng lưới có phạm vi trên toàn thế giới. Trong mạng lưới đó một doanh nghiệp sẽ mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài để thực hiện việc cung cấp, sản xuất và phân phối một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó.
Nhưng, đại dịch COVID-19 đã gây ra sự gián đoạn lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu do các chuỗi cung ứng từ nguyên liệu dược phẩm, thực phẩm, điện tử và thiết bị y tế của thế giới đều phụ thuộc vào Trung Quốc. Nó cũng làm nổi bật vai trò quan trọng của Trung Quốc với sự thống trị rộng khắp đến mọi nền kinh tế khác, từ ngành sản xuất thiết bị y tế cho đến nguồn cung ứng thực phẩm.
Và đó cũng là một lời cảnh tỉnh cho các công ty phụ thuộc hoàn toàn vào các nhà cung cấp Trung Quốc. Đa dạng hóa nhà cung cấp là một cách để tăng cường khả năng phục hồi, có nghĩa là ít nhất một số dây chuyền sản xuất có thể phải chuyển vĩnh viễn đi nơi khác. Nhưng, các khía cạnh thực tế của việc chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc rất phức tạp.
Trong bối cảnh này, khi các công ty toàn cầu đã điều chỉnh các chiến lược sản xuất và chuỗi cung ứng của họ để xây dựng khả năng phục hồi, Việt Nam có cơ hội rất lớn để trở thành một trung tâm sản xuất toàn cầu với ba tài sản chính để tận dụng cơ hội duy nhất này: tiềm năng về nhu cầu nội địa đáng kể, Chính phủ khuyến khích sản xuất và với lợi thế nhân khẩu học, bao gồm một tỷ lệ đáng kể lực lượng lao động trẻ.
Năm ngoái, các hoạt động sản xuất trên khắp Đông Nam Á đã bị ảnh hưởng khi các quốc gia sản xuất như Việt Nam và Malaysia thực thi các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt, khiến việc sản xuất chất bán dẫn, quần áo, giày dép v.v. bị đình trệ kéo dài. Nó cũng thúc đẩy một số công ty đưa hoạt động sản xuất trở lại Trung Quốc, nơi có thể xuất khẩu lượng hàng hóa kỷ lục bất chấp sự bùng phát trong nước thường xuyên, tắc nghẽn vận chuyển và các vấn đề tại các cảng khắp nơi.
Cho đến năm nay, mọi thứ vẫn không có dấu hiệu nào cho thấy sự gián đoạn chuỗi cung ứng sẽ giảm bớt khi tình trạng tắc nghẽn, thiếu hụt lao động và suy giảm năng lực vẫn còn phổ biến.
Bằng các biện pháp chống COVID-19 không khoan nhượng của mình, Trung Quốc tiếp tục đóng cửa sản xuất và các cảng thường xuyên hơn khi biến thể Omicron cực kỳ dễ lây lan. Trong khi người tiêu dùng các nước tiếp tục yêu cầu ngày càng nhiều thứ hơn, còn các thương hiệu lại quyết tâm giao hàng đúng giờ để làm hài lòng hoặc ít nhất là không làm khách hàng thất vọng.
Đặc biệt, theo các chuyên gia phân tích, giá cước vận chuyển đường biển dự kiến sẽ tiếp tục tăng cao vào năm 2022, thiết lập một năm bùng nổ lợi nhuận khác cho các hãng vận tải hàng hóa toàn cầu và chính điều đó cũng khiến các công ty và khách hàng của họ từ châu Mỹ cho đến châu Âu sẽ phải trả nhiều tiền hơn cho mọi thứ.
Tỷ giá giao ngay cho một container 40 feet từ châu Á đến Mỹ đạt mức cao nhất 20.000 USD vào năm ngoái, bao gồm cả phụ phí và phí bảo hiểm, tăng từ mức dưới 2.000 USD một vài năm trước và gần đây đang dao động gần mức 14.000 USD. Ngoài ra, công suất container chật hẹp và tắc nghẽn cảng đồng nghĩa với việc giá cước dài hạn ước tính cao hơn 200% so với một năm trước, báo hiệu giá cả sẽ tăng trong tương lai gần.
Việt Nam hiện tại đang tham gia rất sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Chúng ta cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ và mua từ các nhà sản xuất công nghiệp toàn cầu. Và không chỉ là mắt xích chuỗi cung ứng, Việt Nam còn là điểm đến hấp dẫn cho dòng vốn FDI.
Nhưng giờ đây, cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu đang khiến các doanh nghiệp FDI phải đối mặt với nhiều lựa chọn khó khăn hơn trong dài hạn. Nhiều khả năng chúng ta sẽ thấy những thay đổi trong chiến lược kinh doanh và thông điệp, với những tác động cuối cùng lên chuỗi cung ứng. Các cuộc gọi cho reshoring hoặc nearshoring đang tăng lên (Trong một số trường hợp, một công ty sẽ phục hồi toàn bộ hoạt động và chuỗi cung ứng của mình, từ nguyên liệu thô đến thành phẩm với việc dịch chuyển về gần đại bản doanh của mình).
Một số doanh nghiệp sẽ buộc phải thiết kế lại chuỗi cung ứng, kiểm tra sự cân bằng giữa các nhà cung cấp, vị trí của nhà cung cấp, thời gian vận chuyển, định tuyến và độ tin cậy của lịch trình. Còn trong thiết kế lại dài hạn, giải pháp là chuyển từ một nhà cung cấp hoặc khu vực đầy thách thức, sang một khu vực khác an toan hơn, sau đó thực hiện những thay đổi thích hợp về làn đường, dịch vụ và nhà vận chuyển.
Mặc dù những hành động như vậy sẽ không dễ dàng, nhưng không có gì là không thể trong bối cảnh mọi thứ không chắc chắn như thế này...
... Còn tiếp
Có thể bạn quan tâm
Cơn "đau đầu" của các doanh nghiệp FDI (Kỳ 2): “Gồng mình” trong dịch bệnh
04:01, 26/01/2022
Cơn "đau đầu" của các doanh nghiệp FDI (Kỳ 1): “Đỏ mắt” tìm nhân lực
11:00, 25/01/2022
Xuất nhập khẩu của doanh nghiệp FDI đạt 440 tỷ USD
03:30, 24/12/2021
Hải Dương: Bùng phát ổ dịch mới tại doanh nghiệp FDI
19:52, 30/11/2021
TIN NÓNG CHÍNH PHỦ: Yêu cầu Tiền Giang khẩn trương giải quyết kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp FDI
20:10, 27/10/2021