Đây là vấn đề được các Đại biểu Quốc hội đưa ra tại phiên chất vấn các thành viên Chính phủ mới đây.
Lách luật bằng cổ phần
Theo quy định của Luật Đầu tư hiện hành cho phép nhà đầu tư nước ngoài có quyền “góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào các tổ chức kinh tế” và nếu nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần tại một công ty Việt Nam không phải là công ty đại chúng thì chỉ cần có văn bản chấp thuận cho mua lại của Sở KH&ĐT địa phương. Tuy nhiên nếu nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phiếu của một công ty đại chúng đã niêm yết thì cũng không cần thủ tục trên.
Do đó, Luật Đầu tư cần được sửa đổi, bổ sung quy định theo hướng dù doanh nghiệp thành lập mới hay góp vốn, mua cổ phần đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam nếu có liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài tại các tỉnh thành biên giới, vị trí nhạy cảm về an ninh quốc phòng thì dự án đều phải có ý kiến của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao và các bộ ngành liên quan.
“Núp bóng” mua đất
Đối với Luật Đất đai hiện hành, tại các Điều 54, 55, 56 Luật Đất đai 2013 quy định cá nhân người nước ngoài không phải là đối tượng được giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, những quy định này lại không lường trước được việc những người nước ngoài “núp bóng” người Việt Nam để mua đất, đứng tên thành lập doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực còn hạn chế người nước ngoài rồi sau đó chuyển quyền sở hữu.
Đối với Luật Doanh nghiệp hiện quy định cho phép tham gia thành lập doanh nghiệp góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 34, Luật Doanh nghiệp 2020 quy định tài sản góp vốn là đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng đồng Việt Nam.
Khi góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thành viên góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 35 Luật Doanh nghiệp 2020. Sau đó nếu các bên góp vốn bán lại toàn bộ cổ phần cho người nước ngoài thì đương nhiên tài sản đó cụ thể là đất trong trường hợp này sẽ vẫn thuộc về doanh nghiệp.
Tuy nhiên trên thực tế, quyền nắm giữ và định đoạt khu đất đó lại thuộc về người nước ngoài. Vậy có thể thấy người nước ngoài không cần phải đứng tên trên sổ đỏ nhưng họ vẫn nắm quyền đối với đất thông qua quyền sở hữu doanh nghiệp.
Mời các bạn tham gia vào group Diễn đàn Doanh nghiệp để thảo luận và cập nhật tin tức.
Thông báo từ Diendandoanhnghiep.vn